Quan họlà một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, diễn xướng dân
gian độc đáo, hấp dẫn, có giá trịnhân văn, giá trịnghệthuật to lớn và có sức
sống lâu bền bậc nhất trong lịch sửvăn hoá Việt Nam, ra đời, phát triển và
đạt đến đỉnh cao tại các làng quê xứKinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang.
Là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian,
quan họlà một tổng thểdo nhiều yếu tốvăn hóa nghệthuật dân gian xứ
Kinh Bắc hợp thành qua một quá trình lịch sửlâu dài. Nó là một chỉnh thể
văn hoá nghệthuật gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người, với văn hóa,
văn minh làng xã, thu hút và biểu hiện những ước mơ, những nguyện vọng,
những khát vọng, thểhiện quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con
người nơi đây.
229 trang |
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 2974 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm về cội nguồn quan họ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Liªn hiÖp c¸c héi khoa häc vµ kü thuËt viÖt nam
Trung t©m nghiªn cøu b¶o tån vµ ph¸t huy v¨n hãa d©n téc
_______________________________________
C«ng tr×nh nghiªn cøu
T×m vÒ
céi nguån quan hä
Chñ nhiÖm
GS Hoµng Ch−¬ng
Nhãm nghiªn cøu
NNC NguyÔn ThÕ Khoa
PGS.TS §Æng ViÖt BÝch
TS Ph¹m ViÖt Long
NS D−¬ng §×nh Minh S¬n
TS §oµn ThÞ T×nh
NS NguyÔn Thanh Ng©n
NNC Lý Kh¾c Cung
6624
09/11/2007
2
“...Khi một bài hát quan họ được biểu diễn, tôi cảm như
đã được thấy những nhạc sĩ thiên tài và nhà thơ xuất sắc
của đất Kinh Bắc...Những nhạc sĩ và nhà thơ dân gian ấy
có phải đâu xa lạ với chúng ta. Chính là các cụ ông, cụ
bà ở vùng Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng thời xưa, các
cụ tổ tiên của chúng ta...” .
Vũ Ngọc Phan
Nếu đời còn có đời sau
Tôi xin trở lại hát câu tâm tình
Theo làn quan họ Bắc Ninh
Với người quan họ kết tình anh em.
Huy Cận
3
Phần mở đầu
LỊCH SỬ VÀ MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, diễn xướng dân
gian độc đáo, hấp dẫn, có giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật to lớn và có sức
sống lâu bền bậc nhất trong lịch sử văn hoá Việt Nam, ra đời, phát triển và
đạt đến đỉnh cao tại các làng quê xứ Kinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang.
Là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian,
quan họ là một tổng thể do nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian xứ
Kinh Bắc hợp thành qua một quá trình lịch sử lâu dài. Nó là một chỉnh thể
văn hoá nghệ thuật gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người, với văn hóa,
văn minh làng xã, thu hút và biểu hiện những ước mơ, những nguyện vọng,
những khát vọng, thể hiện quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con
người nơi đây.
Theo chiều dài lịch sử, sinh hoạt văn hoá quan họ đã sáng tạo, dung
nạp, chuyển hóa, sinh thành, đào thải...trong quá trình giao lưu và tiếp biến
văn hoá với các hình thức sinh hoạt văn hoá khác ở địa phương, ở trong
nước và các nước láng giềng để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu phát
triển qua từng thời đại, nên giá trị nội dung, nghệ thuật của sinh hoạt văn hoá
quan họ giàu có, phức tạp, đa diện, phát triển và biến hoá không ngừng.
Sáng tạo sinh hoạt văn hóa quan họ, với những phong tục, lề lối in
đậm truyền thống nhân văn dân tộc, với những làn điệu và lời ca tài hoa, độc
đáo, duyên dáng, tinh tế, người Kinh Bắc đã cho thấy một đời sống tinh thần
vô cùng phong phú, rộng mở và một khả năng sáng tạo, thưởng thức văn hoá
4
nghệ thuật ở trình độ cao từ xa xưa. Nói như nhà nghiên văn hoá dân gian
tiền bối Vũ Ngọc Phan thì dân ca quan họ đã cho thấy các làng quê xứ Kinh
Bắc có thể sản sinh ra “những nhạc sĩ dân gian thiên tài” và “những nhà
thơ dân gian xuất chúng” như thế nào.
Quan họ đã trở thành một đặc sản văn hoá đầy tự hào của người dân
Kinh Bắc, một biểu hiện rực rỡ của truyền thống văn hoá văn minh và nghệ
thuật Việt Nam.
Việc sưu tầm nghiên cứu, giới thiệu quan họ như một sinh hoạt dân ca
độc đáo, tiêu biểu của dân tộc đã được một số nhà nghiên cứu văn hoá, học
giả nước ta khởi xướng từ trước cách mạng tháng Tám. Bắt đầu là tác giả
Chu Ngọc Chi với công trình sưu tầm giới thiệu “Hát quan họ” (Nhà xuất
bản Phú Hiệp Sài Gòn, 1928). Tiếp theo là Nguyễn Văn Huyên với luận văn
tiến sĩ tại đại học Sorbone, Pari, năm 1934, có tên gọi “Hát đối đáp nam nữ
thanh niên”. Sau đó là một số bài du ký, tiểu luận in trên báo chí đương thời
của các tác giả như Vũ Bằng, Nguyễn Duy Kiện, Việt Sinh, Minh Trúc,
Mạnh Quỳnh, Toan Ánh...và dân ca quan họ đã được giới thiệu trong sách
“Việt Nam văn học sử yếu” của học giả Dương Quảng Hàm.
Tuy vậy, theo GSTS Trần Văn Khê, những công trình nhỏ lẻ giai đoạn
này chưa được mấy người biết tới. Bản thân Trần Văn Khê cho tới đầu 1950
vẫn chưa hình dung ra dân ca quan họ là thế nào.
Trong kháng chiến chống Pháp, việc sưu tầm, nghiên cứu, chỉnh lý,
phục hồi dân ca quan họ đã được tiến hành giữa khói lửa chiến tranh ngay
tại chiến khu Việt Bắc và mười bài quan họ đã có mặt và được hoan nghênh
nồng nhiệt trong chương trình biểu diễn chào mừng chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ của Đoàn Văn công Quân đội. Sau đó, nhiều tiết mục dân ca quan
họ đã xuất hiện và gây chú ý lớn tại Đại hội Văn công toàn quốc lần thứ nhất
năm 1954 cũng như được các nghệ sĩ Việt Nam đưa đi trình diễn tại các
5
Liên hoan thanh niên sinh viên thế giới và được dư luận bạn bè quốc tế đánh
giá rất cao.
Sự chinh phục hiển nhiên, ngoạn mục của âm nhạc và lời ca quan họ
trên các sân khấu trong nước và thế giới đã tạo ra cả một phong trào sưu
tầm, nghiên cứu, phục hồi dân ca quan họ từ sau 1954 trên miền Bắc XHCN.
Các nhạc sĩ Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Lê Yên, Lê Huy, Nguyễn Đình Phúc,
Nguyễn Đình Tấn, Tử Phác, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc, Lưu Khâm, Hồng
Thao. Nguyễn Trọng Anh, Hữu Thu...các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Lê
Thị Nhâm Tuyết, Lê Văn Hảo, Nguyễn Địch Dũng, Lê Trung Vũ, Lê Hồng
Dương, Đặng Văn Lung, Trần Linh Quý, Lê Danh Khiêm... đã dành nhiều
sự quan tâm sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ.
Hai tập sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh” của các tác giả Nguyễn Văn
Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc được nhà xuất bản Văn hoá
xuất bản năm 1961 và “Một số vấn đề về dân ca quan họ” do Ty Văn hoá
Hà Bắc xuất bản năm 1972, tập hợp những tham luận tại 4 cuộc hội thảo về
quan họ trong các năm 1965, 1967, 1969, 1971 được tổ chức tại cái nôi quan
họ Hà Bắc, có thể coi như hai công trình tiêu biểu cho những thành tựu sưu
tầm nghiên cứu dân ca quan họ cho đến trước năm 1975 ở trong nước. Cùng
thời gian này, ở châu Âu, GSTS Trần Văn Khê cũng đã bắt đầu giới thiệu
dân ca quan họ trong hai công trình “Âm nhạc truyền thống Việt Nam” và
“Hát quan họ”. Năm 1969, sự kiện Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc ra đời
cũng là một cột mốc có ý nghĩa trong công tác sưu tầm nghiên cứu quảng bá
dân ca quan họ.
Từ sau năm 1975 cho đến nay, việc sưu tầm nghiên cứu và giới thiệu
rộng rãi dân ca quan họ đã tiến thêm những bước mới ở trong nước cũng
như ngoài nước. Ở ngoài nước, các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ Việt kiều như
Trần Văn Khê, Trần Quang Hải, Nguyễn Thuyết Phong, Hoàng Ngọc Tuấn,
6
Hoàng Việt Khanh...tiếp tục có những hoạt động nghiên cứu, giới thiệu dân
ca quan họ đầy đủ và toàn diện hơn nhờ tiếp thu, cập nhật được các thành
tựu sưu tầm nghiên cứu trong nước và của folklore học, dân tộc nhạc học thế
giới. Riêng GSTS Trần Văn Khê đã có tới hơn 60 bài viết về quan họ trên
sách báo quốc tế. Nhiều đoàn nghiên cứu, nhiều chuyên gia âm nhạc và dân
tộc nhạc học thế giới đã đến Việt Nam để nghiên cứu giới thiệu dân ca quan
họ. Đáng chú ý nhất ở trong nước trong thời kỳ này là các sự kiện: phục hồi
các lễ hội truyền thống tại các làng quan họ cổ truyền, công bố các cuốn
sách: “Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển” của các tác giả Đặng
Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (Nhà xuất bản khoa học xã hội-528
trang-1978), “Dân ca quan họ” (Nhà xuất bản âm nhạc - 1997) ,“300 bài
dân ca quan họ Bắc Ninh” (Viện nghiên cứu âm nhạc - 960 trang - 2002)
cùng của tác giả Hồng Thao và việc Nhà nước ta cho phép ngành văn hoá
thông tin và tỉnh Bắc Ninh chính thức lập hồ sơ đề nghị UNESCO công
nhận dân ca quan họ là “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại”.
Với việc thành lập Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc (nay là Đoàn dân ca
quan họ Bắc Ninh), lần đầu tiên chúng ta có một đoàn nghệ thuật chuyên
nghiệp nhà nước chuyên về quan họ. Mục tiêu ban đầu của đoàn rất rõ: tập
hợp các nghệ nhân quan họ lão thành và các tài năng trẻ là các là liền anh,
liền chị từ các làng quan họ để phục hồi và phát triển nghệ thuật quan họ cổ
truyền. Trong những năm từ 1970-1974, các nghệ sĩ trẻ từ 13 đến 20 tuổi của
Đoàn, vốn được tuyển lựa từ các làng quan họ cổ truyền, đã về ở tại các làng
quan họ, được các nghệ nhân truyền dạy trực tiếp từng làn điệu, từng câu
hát, từng mỗi luyến láy và mỗi nghệ sĩ trẻ đã tích luỹ được cả trăm bài hát
quan họ cổ truyền. Tiếp đến đoàn đã dựng hai chương trình tái hiện quan họ
hát hội và quan họ hát canh với tên gọi “Quan họ ngày hội” và “đón bạn
ngày xuân”. Sau khi trình diễn để xin ý kiến nghệ nhân và nhân dân các làng
7
quan họ, Đoàn đã có chuyến công diễn ra mắt lịch sử gần nửa tháng trời tại
Hà Nội vào đầu tháng 5/1974 và được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, giới văn hoá nghệ thuật và nhân dân thủ đô hoan nghênh nhiệt liệt.
Sự có mặt của Đoàn dân ca quan họ có tác dụng nhất định kích thích
sự phục hồi và phát triển sinh hoạt quan họ tại địa phương cũng như giới
thiệu nghệ thuật ca hát quan họ với người xem trong nước và thế giới. Tiếng
hát quan họ đã được những tên tuổi rất được mến mộ như Thuý Cải, Ba
Trọng, Thuý Hường, Khánh Hạ...đưa đi rất xa và có sức chinh phục lớn. Tuy
nhiên, vì nhiều lý do, Đoàn đã không kiên trì được định hướng tốt đẹp ban
đầu, việc cải biên, chỉnh lý theo các nguyên tắc tân nhạc hoá và sân khấu
hoá vội vàng, ồ ạt, nhằm thoả mãn thị hiếu của một số công chúng đã làm
các tiết mục biểu diễn của đoàn đi quá xa cội nguồn, đánh mất nhiều tinh
hoa hương sắc của dân ca quan họ cổ truyền, bị giới quan họ truyền thống dị
ứng, vẫn coi như các sản phẩm của một thứ “quan họ đài”, “quan họ
đoàn”, tức chỉ là hình thức ca nhạc mới mang màu sắc quan họ chứ
không còn là quan họ đích thực.
Việc phục hồi các lễ hội truyền thống của các làng quan họ trong
nhưng năm đổi mới đã tạo ra một động lực mạnh mẽ, một nền tảng lớn để
phục hồi dân ca quan họ. Dân ca quan họ, về cơ bản, là nghệ thuật ca hát của
các hội làng quan họ, do nhân dân tại các làng quan họ sáng tạo, gìn giữ và
truyền bá, pgát triển. Các hội làng Kinh Bắc là môi trường tốt nhất, lý tưởng
nhất để bảo tồn, phát huy, phát triển dân ca quan họ. Các nhóm quan họ,
“bọn quan họ” được phục lập, các cuộc hát thi, hát hội hát canh lại được tổ
chức tại các hội làng. Dân ca quan họ đã phần nào trở lại tại các hội Lim, hội
Diềm, hội Nhồi, hội Ó, hội Thổ Hà, hội Bùi, hội Chắp...Tuy vậy, có thể nhận
thấy sinh hoạt quan họ tại các hội làng hiện nay cũng khá lai tạp, nhiều
phong tục, lề lối cao đẹp xưa đã bị tuỳ tiện bỏ qua và cũng là nơi các loại
8
“quan họ đoàn”, “quan họ đài”, quan họ thương mại lấn át quan họ cổ
truyền. Như vậy, không chỉ ở các “đoàn”, “các “đài”, mà ngay tại các làng
quan họ truyền thống, các loại quan họ nhạc mới, quan họ biểu diễn cũng
đang chiếm thế thượng phong. Thậm chí, một quan chức lãnh đạo ngành văn
hoá thông tin quê hương quan họ đã từng không ngần ngại công khai phát
biểu rằng đã đến lúc nên đưa quan họ cổ truyền, quan họ sinh hoạt đã già
cỗi, lỗi thời vào viện bảo tàng để cho quan họ nhạc mới, quan họ biểu
diễn, một thứ quan họ mà ông cho là thích hợp với thời đại mới, rộng đường
phảt triển.
Nguy cơ mai một thứ quan họ thuần chất, tuyệt đẹp từng có cũng đã
xuất hiện tại nơi được coi là cái gốc của dân ca quan họ, nơi dân ca quan họ
nảy nở, phát triển, thăng hoa và đạt đến những đỉnh cao chói lọi.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do sự thiếu hiểu biết toàn
diện, sâu sắc về truyền thống quan họ, về những đặc trưng nghệ thuật và quy
luật bảo tồn phát triển của nó cùng sự bối rối mất phương hướng trong việc
giải quyết các mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, giao lưu và hội nhập.
Những thành tựu nhiều mặt trong công tác sưu tầm nghiên cứu quan họ cổ
truyền đã không được các nhà quản lý và những người thực hành quan họ
biết, hiểu, nắm vững và vận dụng trong thực tế phục hồi và phát triển dân ca
quan họ.
Cần khẳng định rằng thành tựu sưu tầm nghiên cứu về dân ca quan họ
trong hơn nửa thế kỷ qua dưới ánh sáng của đường lối văn hoá văn nghệ của
Đảng và các chính sách của Nhà nước ta là không nhỏ.
Nổi bật nhất trong việc sưu tầm dân ca quan họ là các công trình
“Dân ca quan họ Bắc Ninh” (của nhóm tác giả Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu
Phước, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc) với bộ sưu tập 200 làn
điệu và 320 bài ca quan họ khác nhau, “Dân ca quan họ - Lời ca và bình
9
giải” (Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh- Trung tâm Văn hoá quan họ Bắc
Ninh 2001) với 213 giọng quan họ và 346 bài ca, “300 bài dân ca quan họ
Bắc Ninh” của Hồng Thao, một người Hà Nội vì yêu quan họ đã lên sinh
sống ở Thị Cầu Bắc Ninh, chịu nghèo khó, hy sinh trọn đời để sưu tầm
nghiên cứu quan họ. Có thể nói công phu và nghiêm cẩn nhất là công trình
của Hồng Thao sưu tầm, ghi âm, ký âm chú giải hết sức trung thực, kỹ lưỡng
174 làn điệu dân ca quan họ và hơn 100 dị bản chọn lọc từ chính các nghệ
nhân nổi tiếng ở các làng quan họ, không cải biên, không chỉnh lý.
Trong công tác nghiên cứu, các nhạc sĩ Văn Cao, Lê Yên, Lưu Hữu
Phước, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Đình Phúc, Đôn
Truyền... có những phát hiện, đúc kết quý giá về những đặc sắc âm nhạc học
của dân ca quan họ như một trong những đỉnh cao của âm nhạc cổ truyền
Việt Nam. Đặc biệt nhạc sĩ Hồng Thao, người nhạc sĩ đã thực sự hiến mình
cho dân ca quan họ, không những cần mẫn thận trọng trong sưu tầm mà còn
xuất sắc nổi bật trong nghiên cứu. Với “Dân ca quan họ”, chính Hồng Thao
đã có một công trình phân tích, kiến giải, tổng kết cụ thể, toàn diện, sâu sắc,
khoa học và có sức thuyết phục về tính chất và đặc điểm của âm nhạc và ca
hát quan họ. Nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung đóng góp một công trình mô tả
khá sâu sắc, toàn diện về không gian văn hoá, nguồn gốc và quá trình phát
triển của dân ca quan họ với tư cách là một hình thức diễn xướng dân gian
Kinh Bắc. Nhà nghiên cứu Trần Linh Quý rất nhạy cảm, sáng tạo khi phục
hiện được chân dung tinh thần cùng tài năng và những đặc điểm sáng tạo của
“Người nghệ sĩ quan họ”, nhân vật trung tâm của dân ca quan họ .
Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có những công trình có tính chất tổng
kết những đặc trưng cơ bản của dân ca quan họ, một hình thức diễn xướng
dân gian, một thể loại âm nhạc cổ truyền đã đạt đến đỉnh cao, đã được luyện
thành ‘vàng mười” và có sức sống xuyên thời gian, xuyên không gian, tìm ra
10
các quy luật bảo tồn và phát triển được hình thành từ chính trong quá trình
phát triển, biến hoá của quan họ, mạnh dạn chỉ ra những cái bất biến và khả
biến của dân ca quan họ, góp phần giúp việc bảo tồn và phát triển sinh hoạt
âm nhạc truyền thống độc đáo này đúng hướng, đạt hiệu quả cao, không
“gieo vừng ra ngô” như Bác Hồ từng cảnh báo.
Công trình này của nhóm tác giả thuộc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn
và Phát huy Văn hoá Dân tộc trực thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam mong muốn bước đầu bù đắp vào chỗ thiếu hụt đó trong
công tác nghiên cứu dân ca quan họ.
Trên cơ sở phác hoạ toàn cảnh không gian văn hoá của quê hương
quan họ, phục hiện chân dung sinh hoạt quan họ với những phong tục lề lối,
các chức năng và hình thức diễn xướng cùng chân dung người nghệ sĩ quan
họ, “một trong những hình mẫu về người nghệ sĩ Việt Nam chân chính”,
phân tích những đặc sắc về âm nhạc, ca hát, văn học và trang phục quan họ,
công trình của chúng tôi hướng đến việc tìm ra những đặc trưng cơ bản, bất
hủ của dân ca quan họ, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển dân ca
quan họ trong cuộc sống hôm nay và trong tương lai. Đây là dạng công trình
vừa mang tính chất nghiên cứu cơ bản, tổng hợp vừa có tính chất ứng dụng,
thực hành xã hội.
Trong tên gọi “Tìm về cội nguồn quan họ” mà chúng tôi tạm đặt cho
công trình, từ cội nguồn nghiêng về nghĩa là những hạt nhân cơ bản, những
tinh hoa có tính chất đặc trưng, bản chất, những ADN di truyền của quan họ
mà nếu đánh mất nó trên con đường biến đổi phát triển, quan họ sẽ không
còn là quan họ.
Với nội dung và mục tiêu nghiên cứu đó, công trình của chúng tôi sẽ
có các phần nghiên cứu sau:
Chương I
11
Kinh Bắc, không gian văn hoá của quê hương quan họ.
Chương II
Từ những truyền thuyết về nguồn gốc và thời điểm ra đời của dân
ca quan họ.
Chương III
Chân dung sinh hoạt văn hoá quan họ xưa.
Chương IV
Âm nhạc và ca hát quan họ.
Chương V
Văn học quan họ
Chương VI
Trang phục quan họ.
Chương VII
Thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát huy văn hoá quan họ.
Đây là một nhiệm vụ nghiên cứu rất khó khăn, phức tạp, có những đòi
hỏi cao về lý luận và thực tiễn đối với các thành viên nghiên cứu. Tuy được
tận hưởng thành tựu phong phú của các nhà nghiên cứu đi trước và có nhiều
cố gắng tổng hợp, phát triển cũng như mạnh dạn nêu ra những phát hiện,
chiêm nghiệm, những kiến giải và đề xuất mới theo đòi hỏi của thực tiễn,
nhưng do trình độ và thời gian có hạn, chắc chắn công trình còn nhiều thiếu
sót, bất cập, mong nhận được những bổ sung chỉ giáo của các bậc tiền bối
cùng đồng nghiệp gần xa quan tâm tới dân ca quan họ.
12
Chuơng Một
KINH BẮC
KHÔNG GIAN VĂN HOÁ CỦA QUÊ HƯƠNG QUAN HỌ
I. Kinh Bắc - quê hương quan họ.
Dù thường được gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh nhưng quê hương
dân ca quan họ không chỉ thuộc địa phận Bắc Ninh mà còn bao gồm cả một
số địa phương của Bắc Giang. Từ trước cách mạng tháng Tám, hai nhà
nghiên cứu Minh Trúc và Toan Ánh trên báo Trung Bắc tân văn từ năm
1937 và trong sách Phong tục Việt Nam năm 1943, cho biết các làng Thổ Hà,
Mật Ninh, Nội Ninh và một số làng khác ở Lục Ngạn, Việt Yên, Bắc Giang
cũng biết hát và lập hội hát quan họ nhộn nhịp vào mùa xuân như các làng ở
Võ Giàng, Tiên Du, Yên Phong, Bắc Ninh. Trong 49 làng quan họ truyền
thống như mọi người thường nhắc, ngoài 44 làng thuộc ba huyện Bắc Ninh
thì có 5 làng thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang. Trong các đợt điền dã gần
đây để nghiên cứu dân ca quan họ tại các địa phương Bắc Giang trong năm
2005, hai nhà nghiên cứu trẻ của Viện Văn hoá Thông tin Bùi Quang Thanh
và Phạm Nam Thanh cho biết đã phát hiện thêm 15 làng quan họ cổ truyền
nữa tại các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hoà với hàng chục nghệ nhân
có tuổi đời từ 75 đến 95 và hàng trăm liền anh, liền chị các thế hệ. Như vậy,
ta càng có căn cứ để khẳng định dân ca quan họ đã hình thành và phát triển
trên một cùng rộng lớn cả hai bờ nam bắc sông Cầu thuộc hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang ngày nay và trấn Kinh Bắc xưa.
13
1. Kinh Bắc qua các thời kỳ lịch sử.
Kinh Bắc là một trong Tứ trấn quanh kinh đô Thăng Long xưa, cùng
với trấn Sơn Nam, trấn Hải Đông và trấn Hưng Hóa (tức trấn Đoài, Đoài có
nghĩa cổ là phía tây, hướng tây). Trong dân gian có câu:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.
Tục ngữ có câu:
Ăn Bắc, mặc Kinh
Nhiều người cho đến giờ phút này vẫn hiểu lầm Bắc ở đây là Bắc Bộ -
châu thổ sông Hồng, còn Kinh là Kinh thành Huế - Phú Xuân thời Nguyễn.
Hiểu như thế rất sai! Bắc ở đây là trấn Kinh Bắc, xứ Kinh Bắc. Còn Kinh ở
đây là kinh đô hay kinh kỳ Thăng Long, là Đông Kinh, là Kẻ Chợ, nay là Hà
Nội thân yêu của chúng ta. Mặc Kinh nghĩa là dân kinh đô thì mặc đẹp,
trưng diện còn ăn Bắc tức là dân Kinh Bắc ăn ngon, ăn nhiều, đánh chén
lu bù.
Kinh Bắc là địa danh xuất hiện từ Lý triều. Khi đó họ Lý lên làm vua,
nắm binh quyền ở Thăng Long. Họ Lý phát tích từ Kinh Bắc.
Nhưng đất Kinh Bắc thì không phải từ đời Lý mới có mà nó hiện diện
từ rất sớm, ngay trong thời Hùng Vương dựng nước.
Vào thời vua Hùng dựng nước, vùng Kinh Bắc quê hương quan họ
thuộc về bộ Vũ Ninh, một bộ lâu đời và quan trọng của người Lạc Việt.
Vào thời nước Âu Lạc của An Dương Vương - Thục Phán thì Kinh
Bắc thuộc về lãnh địa của đất Long Biên (Bộ lạc Long Biên, tức bộ lạc
Rồng) trong khi đất Tây Vu (Bộ Tây Vu) thuộc bộ lạc Rùa.
Thời kỳ Hán triều (Tây Hán) diệt nước Nam Việt của dòng họ Triệu,
chiếm luôn nước ta (Giao Chỉ, Âu Lạc) thì lúc này vùng Kinh Bắc thuộc
huyện Long Biên, Giao Chỉ quận.
14
Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng (1827 – 1910), tác giả Sử học bị khảo, cho
rằng: thời Hán, thành Long Biên ở Quế Dương, Võ Giàng (nay thuộc Bắc
Giang). Trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) thì học giả Đào
Duy Anh lại quan niệm rằng: thành Long Biên chính là thị xã Bắc Ninh ngày
nay hoặc nằm ở phía bắc thị x