Đề tài Tình hình cổ phần hóa ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ, công nhân và dân cư, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương trên, Bộ giao thông vận tải, Tổng công ty Hàng hải Việt nam đã tích cực tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ vận tải.

doc74 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình cổ phần hóa ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ, công nhân và dân cư, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương trên, Bộ giao thông vận tải, Tổng công ty Hàng hải Việt nam đã tích cực tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ vận tải. Công ty Container phía bắc tên viết tắt là Viconship Hải phòng được thành lập ngày 02/06/1993 với nhiệm vụ chính là Khai thác Container, đại lý tàu biển, môi giới hàng hải cho các hãng tàu trong và ngoài nước, khai thác vận chuyển hàng hoá bằng Container, sửa chữa đóng mới và cho thuê Container, kinh doanh kho, bến, bãi. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty Container phía bắc là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải và dịch vụ vận tải một lĩnh vực có tính cạnh tranh cao đòi hỏi sự năng động và nhạy bén với thị trường. Đồng thời với chủ trương của Đảng và chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì việc cổ phần hoá Công ty Container phía bắc là một đòi hỏi tất yếu hợp với xu thế hiện nay. Là một sinh viên chuyên nghành kinh tế ngoại thương, nhận thức được vai trò to lớn của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, bằng những kiến thức lý luận học tập tại trường Đại Học Ngoại Thương và thực tiễn đã lĩnh hội được trong thời gian thực tại công ty, em mạnh dạn chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Tình hình CPH ở doanh nghiệp Viconship và bài học kinh nghiệm rút ra”. - Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu: Do thời gian hạn chế luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện CPH ở công ty Viconship và đánh giá chung tình hình hoạt động của công ty từ sau khi CPH đến nay. - Phương pháp nghiên cứu: Dựa vào những kiến thức đã học và kinh nghiệm thực tế khi tham gia vào thực tập tại công ty Viconship, đề tài nghiên cứu theo hướng sử dụng lý luận kết hợp với những thực tế để phân tích (phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp phỏng vấn và quan sát) - Mục đích của đề tài: trên cơ sở phân tích tình hình CPH ở công ty và thực trạng hoạt động của công ty sau khi tiến hành CPH, luận văn đưa ra một số bài học nhằm góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CPH của Việt Nam. Với nội dung trên, kết cấu luận văn bao gồm 3 chương ngoài phần mở đầu và kết luận: Chương I : Cổ phần hoá DNNN ở nước ta Chương II : Tình hình cổ phần hoá của công ty Viconship Chương III : Bài học kinh nghiệm rút ra qua quá trình cổ phần hoá của công ty Viconship. Chương I Cổ PHầN HóA doanh nghiệp nhà nước (dnnn) ở việt nam i. dnnn và đổi mới dnnn 1.Khái niệm Theo luật doanh nghiệp nhà nước thì DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội do Nhà nước giao. Như vậy DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, được Nhà nước cấp vốn và các nguồn khác cho hoạt động của mình. DNNN thực hiện các mục tiêu của Nhà nước trên cơ sở kinh doanh những ngành nghề phù hợp với nhu cầu thị trường và có thể mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của mình. DNNN cũng được sử dụng vốn và các quỹ theo nhu cầu kinh doanh, đồng thời tự huy động vốn hoạt động nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu. 2.Thực trạng và sự cần thiết phải đổi mới DNNN ở nước ta. 2.1 Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. 2.1.1 Tài sản và công nghệ Nhìn chung, trình độ công nghệ, kỹ thuật của các DNNN còn lạc hậu. Tại nhiều DNNN trình độ công nghệ lạc hậu so với mặt bằng công nghệ thế giới là khoảng 20 năm. Các trang thiết bị công nghệ không đồng bộ, chắp vá và hầu như đã tính hết khấu hao. Hiện nay tại các DNNN có tới 76% thiết bị công nghệ thuộc thế hệ những năm 50-60, hao mòn hữu hình từ 30 - 50%; 38% số thiết bị công nghệ ở dạng phải thanh lý. Thêm vào đó trình độ công nghệ của DNNN còn yếu kém. Trong số các DNNN trung ương thì có tới 54,3% ở trình độ phổ thông, 41% ở trình độ cơ khí và chỉ có 4,7% ở trình độ tự động hoá. Vì vậy năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp, làm cho khả năng cạnh tranh của các DNNN bị ảnh hưởng rất lớn. 2.1.2 Vốn của DNNN. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện đang ở tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Mặc dù theo số liệu thống kê đến đầu tháng 6 năm 2000 nước ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn là 116 ngàn tỉ đồng, tính trung bình mỗi doanh nghiệp Nhà nước có khoảng 21,97 tỉ đồng. Tuy nhiên số vốn này lại không được phân bố đều, số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ VND là 65,45%, riêng DNNN có số vốn dưới 1 tỷ VND là 20%; DNNN có số vốn trên 10 tỷ VND là 20,89%. Như vậy ở đây có sự bất cập khi phân bố nguồn vốn, có những doanh nghiệp đang thiếu vốn hoạt động thì lại có những doanh nghiệp thừa vốn không biết dùng vào việc gì. 2.1.3. Hiệu quả kinh doanh DNNN là một thành phần quan trọng đóng góp phần lớn vào ngân sách Nhà nước và GDP hàng năm. Điều đó được thể hiện qua bảng 1. Bảng1. Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (Đơn vị: Tỷ VND) Khu vực Kinh tế (KT) Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) Giá trị tuyệt đối (VND) Tỷ trọng (%) KT nhà nước 126970 40,48 144406 40,00 154927 38,74 173118 38,98 KT tập thể 27946 8,91 32131 8,90 35347 8,84 37907 8,53 KT tư nhân 10590 3,38 12325 3,41 13461 3,37 14638 3,30 KT cá thể 107632 34,32 122138 33,83 131706 32,93 142279 32,03 KT khác 12035 3,84 13802 3,83 15543 3,89 17335 3,90 KT có vốn đầu tư nước ngoài 28450 9,07 36214 10,03 48958 12,24 58862 13,25 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 nước CHXHCNVN-NXB thống kê Như vậy khu vực DNNN luôn đóng góp với tỉ trọng lớn vào GDP, trung bình khoảng 40% mỗi năm, nhưng trên thực tế các DNNN lại hoạt động chưa có hiệu quả.Vì thực chất đóng góp 40% vào ngân sách là đã tính không chỉ thuế thu nhập DN, thuế VAT (giống các loại hình khác) mà cả khấu hao, tiền sử dụng vốn.... cho nên khi trừ đi chỉ còn hơn 13%. Theo lời ông Phạm Viết Muôn, phó trưởng ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương, hiện có tới 40% trong gần 6000 DNNN làm ăn thua lỗ, 40% khác làm ăn bấp bênh, 20% còn lại hoạt động có hiệu quả (Trích từ Thời báo kinh tế Việt Nam- số 50 ngày 26/4/2000). Thực tế này cho thấy giá trị mà DNNN đóng góp vào GDP là do số đông chứ không phải do làm ăn có hiệu quả hơn các thành phần kinh tế khác. Chỉ tính riêng các DNNN hoạt động có hiệu quả đã đóng góp hơn 80% tổng số nộp ngân sách của tất cả các DNNN. Từ trên có thể nhận thấy rằng khi bước sang nền KTTT các doanh nghiệp nước ta nói chung và các DNNN nói riêng chưa thực sự hoà nhập được, chưa tìm ra hướng đi đúng đắn cho mình để phát huy hết nguồn lực và đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. 2.1.4. Vấn đề lao động trong DNNN Theo thống kê của Bộ lao động Thương binh xã hội thì tính đến đầu tháng 11/2000 tổng số lao động trong doanh nghiệp Nhà nước là 1,68 triệu người so với 38 triệu lao động của xã hội. Còn nếu tính riêng số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp thì cơ cấu lao động được phân bổ như sau: Lao động trong các DNNN 14,43% Lao động trong các DN tư nhân 10,31% Lao động trong các DN hộ sản xuất kinh doanh nhỏ 30,4% Lao động trong các DN liên doanh 6,76% Lao động trong các doanh nghiệp khác (hợp tác xã...) 38,1% Tuy nhiên cho đến nay, tại hầu hết các DNNN nói riêng và các doanh nghiệp nước ta nói chung đều có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu lao động vì lượng lao động trong các DNNN đông nhưng chất lượng lại thấp. Số lao động dư bình quân tại các DNNN lên tới 6%, có nơi lên tới 20%, chỉ tính riêng số lao động mất việc trong các DNNN sẽ phải phá sản hoặc giải thể đã là 70.000 người, còn số lao động sẽ mất việc khi các DNNN còn lại phải chuyển đổi quyền sở hữu (cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê...) chỉ là hơn 30.000 người. Sở dĩ như vậy vì các doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc giải thể và một số doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả nên số lao động làm việc cầm chừng hoặc không có việc để làm cao. Theo số liệu thống kê, đến đầu năm 1995, chỉ tính riêng các DNNN thương mại đã có 48.500 người phải chờ nghỉ việc, một phần lớn phải làm việc ít ngày hoặc nửa ca... trong tổng số 285.104 lao động của khu vực này. Còn theo số liệu gần đây lượng lao động dư thừa trên 100.000 người. Theo lộ trình đến năm 2003 việc sắp xếp lại các lao động trong các doanh nghiệp sẽ giảm thiểu số lao động dôi dư. Khi đó tổng số lao động trong các DNNN sẽ chỉ còn khoảng 1,1 triệu người, tức giảm 34% so với 1,68 triệu người như hiện nay. Lực lượng lao động trong các DNNN cũng ít được qua đào tạo cơ bản, số được đào tạo, CN kỹ thuật, có tay nghề đã bị thải loại theo QĐ 176/HĐBT (khoảng 720.000 người). Đến sau này các trường dạy nghề hoạt động kém hiệu quả, số lao động mới vào DN (nói chung) hiện nay chỉ 10% là được đào tạo, 90% là lao động phổ thông, chủ yếu làm việc theo kinh nghiệm, vì vậy khi bước sang cơ chế mới những người lao động này chưa thích ứng được và họ trở thành lực lượng lao động dư thừa trong doanh nghiệp. Thêm vào đó, do việc bổ nhiệm các giám đốc hoặc chủ tịch HĐQT trong các DNNN theo nhiệm kỳ, ngắn hạn là 2-5 năm, vì vậy tâm lý của những người lãnh đạo chỉ muốn đưa ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm thu được lợi nhuận tức thời để chứng tỏ khả năng quản lý của mình làm ảnh hưởng lớn đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Từ đó các doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc đào tạo cán bộ quản lý và công nhân có tay nghề phù hợp với tình hình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó năng suất lao động tại các DNNN chưa cao, dẫn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh kém. 2.2. Nguyên nhân của trực trạng DNNN hiện nay: Sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện cạnh tranh kéo dài sự tư duy không đúng trong một mô hình xã hội trước đây. Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ cấu chỉ có hai thành phần (quốc doanh và tập thể). Tư tưởng muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế cá thể đồng nhất với mục tiêu phương hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trước đây người ta thường xem thường các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, coi thị trường là vốn có của chủ nghĩa tư bản. Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức. Các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất, gia công cho nhà nước chứ không phải là một cơ sở kinh doanh. Như vậy rõ ràng DNNN trong điều kiện đó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Sự yếu kém của nền kinh tế là lực lượng sản xuất, nói chung các nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng. Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả cần phải có một lượng vốn lớn, kĩ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại, đội ngũ công nhân, cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí có năng lực, đồng thời phải có trình độ tổ chức và quản lí thích hợp của nhà nước cũng như của doanh nghiệp . Sự yếu kém của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất là sự thấp kém của kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế, cũng như mỗi doanh nghiệp. Trình độ kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế nước ta chỉ ở dưới mức trung bình so với các nước đang phát triển. Nền kinh tế của nước ta còn biểu hiện chưa có tích luỹ nội bộ, chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Khả năng vay vốn nước ngoài cũng không phải là thuận lợi, bởi lẽ ta còn thiếu nợ nước ngoài chưa có khả năng trả nợ trong một thời gian nhất định. Mặt khác hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp, lãi suất tiền vay còn cao. Trong khi khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu kém . Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung, đối với doanh nghiệp nói riêng nhìn chung còn yếu kém, hệ thống pháp luật, chính sách quản lí chưa hoàn chỉnh, phần lớn các văn bản pháp quy dưới luật có nhiều quy định mâu thuẫn với nhau, hệ thống toà án chưa tổ chức kịp thời nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế. Trong hoạt động quản lý nhà nước, tệ quan liêu cửa quyền, thủ tục hành chính quá phiền hà đối với doanh nghiệp và công dân còn khá phổ biến . Trong quá trình chuyển cơ chế quản lí, nhiều văn bản quản lí cũ đã lỗi thời, song chưa được huỷ bỏ. Những văn bản mới có nhiều sơ hở, nhưng không kịp thời sửa đổi nên bị lợi dung phục vụ lợi ích trước mắt, cục bộ của cơ sở, nghành, gây nhiều tiêu cực, vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của nước. Một số công tác đặc biệt quan trọng về quản lí đối với doanh nghiệp như quản lí tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra, giám sát thi hành pháp luật chưa chuyển biến kịp thời trong mọi trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng. Ngược lại có lúc, có nơi lại quá nhiều thanh tra kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp một cách tuỳ tiện. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, nước ta vấp phải một số hạn chế trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước. Về mặt pháp lí, tài sản tiền vốn trong các doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân, nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của cơ sở bị bào mòn một cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước thờ ơ và xa cách với sở hữu toàn dân. Đó là nguyên nhân của tham nhũng, thiếu trách nhiệm, thiếu kỉ cương và kỉ luật của người lao động, của sự giảm sút về năng suất, chất lượng hiệu quả, thiếu sự minh bạch trong phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước, đã có thời gian dài, Việt Nam có sai lầm là trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức những thẩm quyền của người chủ sở hữu. 2.3. Sự cần thiết phải đổi mới DNNN 2.3.1. Cơ sở lý luận Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã hình thành một hệ thống các xí nghiệp quốc doanh hoạt động sản xuất theo đơn đặt hàng của Nhà nước, thiếu năng động trong sản xuất kinh doanh, ỷ lại vào Nhà nước và không có động lực phát triển sản xuất kinh doanh. Nhưng khi bước sang nền KTTT, Nhà nước mở rộng quyền tự chủ cho DNNN và ban hành chế độ tự chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh, chế độ bao cấp bị bãi bỏ; thêm vào đó với nền kinh tế mở cạnh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao; Vì vậy các DNNN cần có sự đổi mới để phù hợp với cơ chế mới. Các DNNN ở nước ta hoạt động trong nền KTTT theo định hướng XHCN nên nó phải là lực lượng chủ đạo có chức năng điều tiết và định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng điều tiết được thể hiện ở chỗ khi có sự bất ổn xảy ra, DNNN dùng lượng dự trữ hàng hoá của mình để bán kìm giá, chống đầu cơ... và DNNN chịu trách nhiệm cung cấp hàng hoá thiết yếu phục vụ nhân dân, thực hiện sản xuất hàng hoá mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm, sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực bảo đảm an toàn, an ninh quốc gia. Chức năng định hướng thể hiện ở chỗ DNNN phải đi tiên phong ở các lĩnh vực chiến lược, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia. Vì vậy việc cải cách DNNN nhằm khẳng định vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế là đúng đắn. 2.3.2. Cơ sở thực tiễn Trước hết là do tay nghề của người lao động và trình độ quản lý của cán bộ cấp cao chưa theo kịp quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Kỹ năng làm việc của người lao động chủ yếu dựa vào sự tích luỹ kinh nghiệm từ trước, nhưng với thời đại phát triển của khoa học kỹ thuật thì kinh nghiệm đó không thể áp dụng trong sản xuất được, tình trạng này dẫn đến sự dư thừa một số lượng lao động đáng kể trong các DNNN đồng thời cũng lại xảy ra tình trạng thiếu lao động có chuyên môn và tay nghề cao. Đây là nghịch lý ở nhiều DNNN hiện nay. Trình độ quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp còn yếu kém, chủ yếu do họ quen hoạt động theo mệnh lệnh của Nhà nước, quen ỷ lại, kém năng động; với cách quản lý đó thì hầu như ai cũng có thể làm cán bộ quản lý trong doanh nghiệp được. Sang cơ chế mới đòi hỏi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các DNNN thì họ đã không đáp ứng được nhu cầu đó, có nhiều người không được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ quản lý nên rất lúng túng trước tình trạng này. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các DNNN là phải cơ cấu lại tổ chức trong doanh nghiệp và đào tạo lại người lao động và cán bộ quản lý. Thứ hai là do sự hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. Đây là lý do chủ yếu và quan trọng nhất. Sự làm ăn kém hiệu quả xuất phát từ trình độ khoa học công nghệ của các DNNN còn lạc hậu. Nhiều nơi máy móc thiết bị được sản xuất từ những năm 50-60 vì vậy không thể đảm bảo chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, nhiều sản phẩm làm ra có mức giá cao hơn các mặt hàng cùng loại nhập khẩu 20-40%. Việc sử dụng đồng vốn kém do đầu tư vào ngành có mức tăng trưởng thấp, khó tiêu thụ sản phẩm cũng làm giảm hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp; Thêm vào đó các DNNN lại thường vay vốn ngắn hạn ngân hàng với lãi suất cao để đầu tư cho dự án trung và dài hạn dẫn tới lợi nhuận giảm rõ rệt, nhiều khi phải trả những khoản thanh toán không cần thiết cho nợ quá hạn ngân hàng. Vấn đề lao động và quản lý trong doanh nghiệp như đã nói ở trên làm cho năng suất lao động rất thấp, ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy do 3 vấn đề chủ yếu trên mà các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút. Ví dụ như các chỉ tiêu về năng suất lao động, tỷ suất sinh lợi trên một đồng vốn, khả năng thanh toán nợ... Từ đó việc cải cách toàn diện DNNN nhằm mục đích chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN, giảm bớt gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. 3. Các phương hướng đổi mới DNNN ở Việt Nam. 3.1. Chính sách từ phía Nhà nước 3.1.1.Đổi mới chính sách vĩ mô hỗ trợ sự phát triển DNNN Để các DNNN phát huy được vai trò của mình đòi hỏi Nhà nước tạo ra một môi trường kinh doanh hợp lý, công bằng, thuận lợi, tôn trọng quy luật vận động của thị trường, tạo điều kiện để cho doanh nghiệp nắm bắt thông tin đầy đủ về thị trường, chính sách kinh tế của Nhà nước giúp doanh nghiệp hoạt động nhạy bén với cơ chế thị trường có nhiều biến động như hiện nay. Để làm được điều này, cơ quan quản lý nhà nước cần dà soát, loại bỏ những văn bản pháp quy đã cũ, lỗi thời hoặc chồng chéo gây phiền hà cho doanh nghiệp, gần đây Bộ Tài chính đã xoá bỏ 700 văn bản; Bộ thương mại đã xoá bỏ 300 văn bản thuộc loại này. Đồng thời chính phủ và bộ hữu quan ban hành kịp thời những văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá việc thi hành pháp luật, pháp lệnh đặc biệt là luật doanh nghiệp mới đây. Nhà nước cần đổi mới các chính sách, tiền tệ nhằm thu hút vốn đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp. Tích cực hình thành thị trường chứng khoán để tạo điều kiện cho thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động, đồng thời có những chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn. Đối với điều kiện sản xuất còn nhiều yếu kém như ở Việt Nam hiện nay thì việc hoà nhập với các nước sẽ tạo một áp lực rất lớn cho các DNNN vì thế Nhà nước cần có các chính sách thương mại duy trì bảo hộ có thời hạn những mặt hàng sản xuất trong nước; dùng công cụ tín dụng, thuế để khuyến khích hàng xuất khẩu, tạo tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính sách thuế cũng cần được điều chỉnh thực hiện theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguồn thu ngân sách. Chính sách giải quyết lao động trong các DNNN cần triển khai tốt hơn nữa nhằm giải quyết lao động dôi dư trong khu vực DNNN giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tuy nhiên cũng phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đảm bảo ổn định chính trị-xã hội. Ngoài ra một số chính sách tăng cường tổ chức lưu thông, phân phối, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ, mở cửa từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới cần phải tăng cường hoàn thiện nhằm giúp doanh nghiệp nhà nước phát huy và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình không những ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường thế
Tài liệu liên quan