Để tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần có một lượng vốn nhất định. Trong cơ chế bao cấp, vốn của các doanh nghiệp quốc doanh do Nhà nước cấp phát nên các hoạt động của doanh nghiệp luôn ỷ lại vào nguồn vốn trên. Khi chuyển sang cơ chế thị trường vốn cấp phát của Nhà nước đối với các doanh nghiệp quốc doanh giảm mạnh
65 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình quản lí tài sản và vốn tại công ty TNHH thoát nước và phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần có một lượng vốn nhất định. Trong cơ chế bao cấp, vốn của các doanh nghiệp quốc doanh do Nhà nước cấp phát nên các hoạt động của doanh nghiệp luôn ỷ lại vào nguồn vốn trên. Khi chuyển sang cơ chế thị trường vốn cấp phát của Nhà nước đối với các doanh nghiệp quốc doanh giảm mạnh. Sự vận động khách quan của quá trình sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được lượng vốn tiền tệ cần thiết và đồng thời tạo nguồn vốn cho phù hợp với sự vận động của sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm vốn, giảm bớt khả năng công tác huy động các nguồn vốn và tăng tích lũy cho doanh nghiệp. Lúc đó có thể đảm bảo được nhu cầu tái sản xuất mà còn hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra sôi nổi và cạnh tranh gay gắt lẫn nhau để đứng vững trên thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp phải quản lý vốn và tài sản hết sức chặt chẽ, nó giữ vai trò quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, công tác quản lí và dử dụng tài sản và vốn nhằm hạ thấp chi phí cho doanh nghiệp. Thêm vào đó việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ sản xuất là vấn đề quan trọng để đạt lợi nhuận tối đa và đồng thời làm tốt nhiệm vụ đối với Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý tài sản và vốn đối với sự phát triển của doanh nghiệp, kết hợp giữa kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế, cũng với sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của các anh chị trong phòng kế toán của công ty, đề tài “tình hình quản lí tài sản và vốn tại Công ty TNHH THOÁT NƯỚC VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU” được chọn với mục đích tìm hiểu thêm về vấn đề quản lí và sử dụng vốn tại doanh nghiệp và từ đó đề xuất các giải pháp có thể nhằm nâng cao chất lượng sử dụng và quản lý vốn tại công ty.
Mục tiêu đề tài
Trong quản lý, các nhà quản trị phải thường xuyên tiến hành việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn. Dựa vào các hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả để tìm ra những nguyên nhân, rút ra các bài học kinh nghiệm và có các biện pháp kịp thời nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu của việc quản lý vốn nhằm:
- Đảm bảo sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.
- Hạ thấp chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí bảo quản đồng thời thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán các khoản công nợ một cách kịp thời nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu: tài liệu nội bộ tại công ty TNHH Thoát nước và Phát triển Đô thị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Quan sát trực tiếp, đánh giá tổng hợp, so sánh hoạt động quản lý và sử dụng vốn của công ty.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý luận chung về TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp.
1.1.1. TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp
1.1.1.1.TSCĐ của doanh nghiệp
Tư liệu lao động là một trong những yếu tố vật chất không thể thiếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tư liệu lao động dùng cho hoạt động của doanh nghiệp cũng có nhiều loại. Để phục vụ cho yêu cầu quản lý, các tư liệu lao động thường được phân chia thành hai loại là TSCĐ và công cụ, dụng cụ nhỏ. Trong đó những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài (tối thiểu từ 1 năm trở lên) được gọi là các TSCĐ, các tư liệu lao động còn lại được gọi là công cụ, dụng cụ nhỏ. Mức giá trị tối thiểu của TSCĐ được quy định riêng tùy theo điều kiện ở mỗi nước và trong từng thời kì.
Các TSCĐ của doanh nghiệp có thể là những tài sản hữu hình như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải,… Hay là những tài sản vô hình được thể hiện ở giá trị các nguồn lực đã đều tư phục vụ cho nhiều chu kỳ sản xuất như chi phí mua các sáng chế hoặc giá trị các thương hiệu doanh nghiệp và lợi thế thương mại,…
Như vậy, TSCĐ của doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài cho các hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời thỏa mãn các tiêu chuẩn quy định của TSCĐ. Ơû Việt Nam, các TSCĐ ngoài tiêu chuẩn định lượng về giá trị và thời gian sử dụng còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn định tính như khả năng chắc chắn thu được lợi ích trong việc sử dụng tài sản trong tương lai; sự tin cậy của nguyên giá tài sản được xác định.
Đặc điểm cơ bản của các TSCĐ là có thể tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong quá trình đó, hình thái vật chất và tính năng sử dụng ban đầu của TSCĐ không thay đổi. Tuy nhiên, giá trị của nó bị hao mòn dần cùng với việc chuyển dịch từng phần giá trị vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Sau thời gian dài, TSCĐ mới cần thay thế, đổi mới khi các TSCĐ đã khấu hao hết hoặc xét thấy sử dụng không còn hiệu quả. Số tiền khấu hao TSCĐ lũy kế lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp.
1.1.1.2 Phân loại TSCĐ của doanh nghiệp.
TSCĐ của doanh nghiệp có nhiều loại, thông thường được phân loại theo các tiêu thức chủ yếu sau:
- Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
- Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng: TSCĐ dùng cho hoạt động kinh doanh; TSCĐ dùng cho phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng; TSCĐ bảo quản, cất trữ hộ Nhà nước.
- Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc thiết bị; phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn; thiết bị dụng cụ quản lý; vườn cây lâu năm, súc vật làm việc để tạo ra sản phẩm.
- Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng: TSCĐ đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh và hoạt động khác; TSCĐ chưa sử dụng; TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý.
1.1.1.3.Vốn cố định của doanh nghiệp.
Để có được các TSCĐ sử dụng trong kinh doanh các doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng vốn tiền tệ nhất định. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hình thành TSCĐ gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Quy mô TSCĐ dùng cho hoạt động của các doanh nghiệp lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến quy mô vốn cố định của các doanh nghiệp.
Các đặc điểm của TSCĐ có ảnh hưởng rất lớn đến đặc điểm chu chuyển cũng như phương thức quản lý và sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp. Do TSCĐ được sử dụng nhiều năm, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên vốn cố định cũng có thời gian chu chuyển dài. Trong mỗi chu kì sản xuất kinh doanh, vốn cố định chỉ chuyển dịch từng phần giá trị vào giá trị sản phẩm và được thu hồi toàn bộ khi TSCĐ hết thời gian . Phần giá trị vốn cố định chuyển dịch vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn của TSCĐ cấu thành chi phí khấu hao TSCĐ. Phần giá trị còn lại của TSCĐ chưa dịch chuyển phản ánh phần giá trị của TSCĐ cần tiếp tục khấu hao theo thời gian sử dụng của tài sản. Khi hết thời gian sử dụng, toàn bộ giá trị vốn cố định được thu hồi và vốn cố định đã hoàn thành một vòng chu chuyển.
Vốn cố định là bộ phận quan trọng cấu thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý vốn cố định, bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp phải gắn liền với việc quản lý, sử dụng TSCĐ có hiệu quả mà một trong các nội dung quan trọng là việc lựa chọn phương pháp khấu TSCĐ của doanh nghiệp.
1.1.2.Hao mòn và khấu hao TSCĐ
1.1.2.1. Hao mòn TSCĐ
Trong quá trình sử dụng, TSCĐ luôn bị hao mòn cả về giá trị và giá trị sử dụng. Hao mòn thường được chia thành hai loại là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình là sự giảm sút về giá trị sử dụng và theo đó là giá trị của TSCĐ theo thời gian sử dụng và cường độ sử dụng của tài sản.
- Hao mòn vô hình chính là sự sụt giảm thuần túy của giá trị của TSCĐ (mất giá) do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ.
Về mặt kinh tế, hao mòn TSCĐ dù xảy ra dưới hình thức nào cũng là sự tổn thất giá trị TSCĐ của doanh nghiệp. Vì thế trong quá trình sử dụng doanh nghiệp cần có biện pháp để hạn chế, giảm thiểu các tổn thất do hao mòn TSCĐ. Đồng thời, khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng hoặc xét thấy việc sử dụng TSCĐ không còn hiệu quả thì cần mạnh dạn thay thế, đổi mới TSCĐ để nâng cao hiểu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn TSCĐ, qua đó gián tiếp phản ánh năng lực còn lại của TSCĐ và vốn cố định ở tại thời điểm đánh giá. Hệ số này càng gần 1 chứng tỏ TSCĐ gần thời điểm hết hạn sử dụng, vốn cố định đã gần thu hồi hết.
1.1.2.2 Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ là sự phân bổ có hệ thống giá trị phải thu hồi của TSCĐ trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ đó. Khấu hao TSCĐ là một yếu tố chi phí cấu thành giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khác với các loại chi phí khác, khấu hao là khoản chi phí thu hồi vốn đầu tư ứng trước hình thành TSCĐ, vì thế không tạo nên dòng tiền mặt trong kỳ. Số tiền khấu hao thu hồi được tích lũy lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp. Quỹ này dùng để tái sản xuất giản đơn hoặc mở rộng TSCĐ của doanh nghiệp khi hết thời hạn sử dụng. Trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp có quyền chủ động sử dụng số tiền khấu hao thu hồi một cách linh hoạt, hiệu quả nhưng phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn nguồn vốn này khi kinh doanh có nhu cầu tái sản xuất giản đơn hoặc mở rộng TSCĐ của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc mức khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ của doanh nghiệp trong quá trình sử dụng. Điều này không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp bảo toàn vốn cố định; đáp ứng yêu cầu đổi mới, thay thế hoặc nâng cấp TSCĐ của doanh nghiệp; đánh giá đúng chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để khấu hao TSCĐ, các doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp với doanh nghiệp mình. Thông thường có các phương pháp khấu hao cơ bản sau:
a. Phương pháp khấu hao theo đường thẳng
Đặc điểm của phương pháp này là mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao TSCĐ được tính bình quân theo thời hạn sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao được xác định theo công thức:
Mức khấu hao =
Và: Tỷ lệ khấu hao = *100%
ỈTỷ lệ khấu hao = *100%
Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Đối với TSCĐ hình thành do mua sắm, nguyên giá bao gồm giá mua thực tế phải trả, chi phi vận chuyển, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ và lãi tiền vay đầu tư TSCĐ, thuế không được hoàn trả. Đối với TSCĐ doanh nghiệp tự xây dựng hoặc TSCĐ vô hình, nguyên giá là tổng giá trị thực tế mà doanh nghiệp đã chi để xây dựng TSCĐ hoặc đã đầu tư vào TSCĐ vô hình đó.
Thời gian sử dụng TSCĐ được xác định trên cơ sở tuổi thọ về kĩ thuật, tuổi thọ kinh tế của TSCĐ và dự tính cho suốt thời gian hoạt động của tài sản. Đây là công việc khá phức tạp, thường phải xem xét đầy đủ các yếu tố về mặt kĩ thuật – công nghệ chế tạo và tính kinh tế trong việc sử dụng TSCĐ nhằm hạn chế các ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
Phương pháp khấu hao theo đường thẳng có ưu điểm là tính toán đơn giản, chi phí khấu hao được phân bổ vào giá thành ổn định; cho phép dự kiến trước thời hạn thu hồi vốn đầu tư vào TSCĐ. Tuy nhiên phương pháp này không thật phù hợp với các loại TSCĐ có thời gian hoạt động không đều giữa các thời kỳ (hoạt động thời vụ), thu hồi vốn chậm chịu ảnh hưởng bất lợi giữa hao mòn vô hình.
b. Phương pháp khấu hao khấu hao nhanh
Thực chất của khấu hao nhanh là đẩy nhanh việc thu hồi vốn trong những năm đầu sử dụng TSCĐ. Khấu hao nhanh có thể thực hiện theo hai phương pháp là khấu hao theo số dư giảm dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
+ Khấu hao theo số dư giảm dần: Theo phương thức này mức khấu hao hàng năm được xác định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ phải tính khấu hao nhân với tỷ lệ khấu hao bình quân.
Công thức tính toán như sau:
MKH = NGCi * TKH
Trong đó:
MKH : Mức khấu hao hàng năm TSCĐ
NGCi : Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ i
TKH : Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm của TSCĐ
i : Thứ tự năm sử dụng TSCĐ (i = 1 " n)
Tỷ lệ khấu hao hằng năm bằng cách lấy tỷ lệ khấu hao bình quân nhân với hệ số điều chỉnh khấu hao nhanh. Theo kinh nghiệm thực tế của các nước, hệ số điều chỉnh thường xác định là:
- 1,5 nếu TSCĐ có thời hạn sử dụng từ 3 - 4 năm.
- 2 nếu TSCĐ có thời hạn sử dụng từ 4 - 5 năm.
- 2,5 nếu TSCĐ có thời hạn sử dụng từ 6 năm trở lên.
Cần thấy rằng khi tính khấu hao theo phương pháp số dư, do ảnh hưởng của yếu tố kĩ thuật tính toán nên đến hết năm cuối vẫn còn lại một phần giá trị TSCĐ chưa được thu hồi. Để khắc phục tình trạng này, trong những năm cuối người ta thường chuyển sang áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng phần giá trị còn lại của TSCĐ chưa thu hồi.
+ Khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng (khấu hao theo tổng số).
Theo phương pháp này , mức khấu hao hàng năm được xác định bằng nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao của từng năm tính khấu hao. Công thức tính như sau:
MKH = NGKH * TKH
Trong đó:
MKH : Mức khấu hao hàng năm TSCĐ
NGKH : Nguyên giá TSCĐ phải tính khấu hao.
TKHi : Tỷ lệ khấu hao giảm dần của năm cần tính khấu hao.
Tỷ lệ khấu hao giảm dần của năm cần tính khấu hao được tính theo hai cách:
- Cách 1: Lấy số năm sử dụng còn lại của TSCĐ cho đến khi hết thời hạn sử dụng chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng.
- Cách 2: Aùp dụng công thức.
TKHi =
Trong đó: TKHi : Tỷ lệ khấu hao giảm dần của năm cần tính khấu hao.
T : Thời hạn sử dụng TSCĐ.
t : Thời điểm (năm) cần tính khấu hao
Phương pháp khấu hao nhanh có ưu điểm cơ bản là giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình, tạo hiệu ứng lá chắn thuế cho doanh nghiệp do làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Tuy nhiên khấu hao nhanh cũng làm tăng chi phí kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp. Việc tính toán khấu hao cũng phức tạp hơn và trong một mức độ nhất định chi phí khấu hao cũng không hoàn toàn phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng.
c. Phương pháp khấu hao khấu hao theo sản lượng.
Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được xác định bằng cách lấy sản lượng dự kiến sản xuất hàng năm nhân với định mức trích khấu hao cho một đơn vị sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành. Công thức tính như sau:
MKH = QSP * MKHđv
Trong đó: MKH : Mức khấu hao hàng năm TSCĐ
QSP : Số lượng sản phẩm sản xuất trong năm.
MKHđv : Mức khấu hao đơn vị sản phẩm
Mức khấu hao đơn vị sản phẩm được tính bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ phải khấu hao chia cho tổng sản lượng dự tính sản xuất trong cả đời hoạt độngcủa TSCĐ. Trường hợp tính khấu hao theo sản lượng tháng thì lấy sản lượng sản xuất trong tháng nhân với mức khấu hao mức bình quân cho 1 đơn vị sản phẩm.
Phương pháp khấu hao theo sản lượng thích hợp với những TSCĐ có mức độ hoạt động không đồng đều giữa các thời kì. Do khấu hao được tính theo khối lượng sản phẩm hoặc công việc thực tế thực hiện nên phản ánh chính xác hơn mức độ hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi việc ghi chép khối lượng công việc, sản phẩm do TSCĐ thực hiện phải chu đáo.
Tóm lại, mỗi phương pháp khấu hao có ưu và nhược điểm riêng. Hiện tại các doanh nghiệp được phép lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp với doanh nghiêp mình. Doanh nghiệp có thể thực hiện khấu hao nhanh để sớm thu hồi vốn song mức khấu hao tối thiểu không được thấp hơn mức khấu hao do Bộ tài chính quy định đối với từng loại TSCĐ.
1.1.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ và vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ và vốn cố định người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
1.1.3.1. Hiệu suất sử dụng TSCĐ.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ sử dụng trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Nguyên giá TSCĐ bình quân được tính theo phương pháp bình quân số học giữa cuối kỳ và đầu kỳ. Công thức tính như sau:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
1.1.3.2. Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Vốn cố định sử dụng trong kỳ là phần còn lại của nguyên giá TSCĐ. Vốn cố định bình quân được tính theo phương pháp bình quân số học giữa cuối kì và đầu kì. Công thức được tính như sau:
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
1.1.3.3. Hàm lượng vốn cố định.
Chỉ tiêu này phản ánh để thực hiện được một đồng doanh thu thuần cần có bao nhiêu đồng vốn cố định. Hàm lượng vốn cố định càng thấp càng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao và ngược lại.
Hàm lượng VCĐ =
1.1.3.4. Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định sử dụng có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế. Tỷ suất lợi nhuận VCĐ càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCĐ càng lớn và ngược lại.
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
1.2. Lý luận chung về tài sản lưu động và vốn lưu động của doanh nghiệp.
1.2.1. Tài sản lưu động và vốn lưu động.
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài TSCĐ còn cần có các TSLĐ. Số vốn tiền tệ ứng trước để mua sắm, hình thành TSLĐ thường xuyên, cần thiết của doanh nghiệp được gọi là vốn lưu động.
TSLĐ của doanh nghiệp thường được chia thành hai loại: TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.
- TSLĐ sản xuất bao gồm các loại như : nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế dự trữ sản xuất và các loại sản phẩm