Thị trường vốn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi đất nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh chóng cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp .
Thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán , các khoản vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho công cuộc đầu tư và xây dựng của chủ đầu tư.
52 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một : tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay.
I. Vai trò của thị trường vốn.
1. Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư.
Thị trường vốn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi đất nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh chóng cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp .
Thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán , các khoản vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho công cuộc đầu tư và xây dựng của chủ đầu tư.
Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu , trái phiếu để huy động vốn còn chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu của chính phủ và trái phiếu địa phương để bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc đầu tư xây dựng các dự án lớn.
Nếu đem so sánh với các phương thức huy động vốn khác thì thị trường vốn có thể huy động một cách đa dạng hơn, rộng rãi hơn với một phương thức linh hoạt hơn , từ đó có thể đáp ứng một cách nhanh chóng những nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư, đảm bảo được tính hiệu quả và thời gian cho nhà đầu tư và những người cần vốn.
Ngoài ra , thông qua thị trường vốn thì chính phủ và địa phương có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình bằng việc phát hành trái phiếu , công trái . Hơn nữa , nếu xét theo quan điểm kinh tế học thì đây là hình thức có thể kiềm chế được lạm phát do không phải in thêm tiền vào lưu thông để phục vụ cho chi tiêu của chính phủ .
Ở Việt Nam hiện nay thì vai trò này đã bắt đầu phát huy tác dụng nhưng vẫn chưa thoả mãn nhu cầu về vốn hiện nay. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì tổng nhu cầu về vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay : 258000 tỉ đồng (năm 2004) , 300.000 tỉ đồng ( năm 2005) và khoảng từ 360.000-370.000 tỉ đồng ( năm 2006) trong khi đó thì đến tháng 8/2006 chúng ta chỉ mới huy động được một lượng rất nhỏ khoảng 8.000 tỉ đồng so với quy mô đầu tư.
2. Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy quá trình sử dụng vốn một cách hợp lý.
Thị trường vốn là kênh huy động vốn theo tín hiệu cơ chế thị trường , là van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn , từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam hiện nay và liên tục trong nhiều năm liền đã làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư của Việt Nam lên một trang mới, một tầm cao hơn.
Theo các chuyên gia, các nhà quản lý của các tổ chức quỹ đầu tư hàng đầu thế giới nhận xét thì việc khả năng huy động vốn đầu tư của nước ngoài là rất tốt và có triển vọng tăng cao hơn trong các năm tiếp theo.
Bà Johanna Chua, Giám đốc phân tích kinh tế và thị trường các nước đang phát triển ở châu Á thuộc Ban phụ trách thị trường toàn cầu châu Á của Citigroup nói việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 sẽ khuyến khích thêm vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào châu Á nói chung và tăng khả năng mở rộng thị trường của Việt Nam tại thị trường Mỹ và EU nói riêng. Cũng cần nói thêm rằng Citigroup hiện nay là tập đoàn cung cấp dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất thế giới. Tại Việt Nam, Citigroup đã 4 năm liền được nhận giải thưởng Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất.
3 .Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hàng năm Việt Nam thu hút vốn một lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước ngoài thông qua việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) không chỉ mang lại vốn mà còn có vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp
Tuy nhiên, dòng vốn này cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn nước ngoài khác. Chính vì vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định và tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn và nền kinh tế Việt Nam đang là vấn đề được các cơ quan hoạch định chính sách, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm.
Theo Bà Nguyễn Thị Liên Hoa, Trưởng Ban phát triển thị trường thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì :
"Trong hai năm 2004 và 2005, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã được đẩy mạnh hơn so với những năm trước rất nhiều lần. Tới cuối tháng 3 năm 2006, đã có 4.673 doanh nghiệp Nhà nước được tái cơ cấu, trong đó có 3.298 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những công ty có quy mô trung bình và nhỏ, vốn Nhà nước trong những công ty này chỉ chiếm 8% trong tổng số những doanh nghiệp Nhà nước phải cơ cấu lại. Vẫn còn nhiều các doanh nghiệp Nhà nước cần phải cổ phần hoá trong những năm tới và đây là những doanh nghiệp Nhà nước có số vốn khổng lồ và thực sự là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước.
Một khu vực tiềm tàng nữa mà có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đó chính là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân. Hiện nay, có tới 97% của hơn 230.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân rất năng động và phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Trong số đó, có một số không ít doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và đang trở thành những thương hiệu mạnh của Việt Nam. Tương lai phát triển của các doanh nghiệp này càng trở nên rõ ràng hơn sau khi Chính phủ ban hành hai bộ luật mới, đó là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Ngoài các doanh nghiệp tư nhân và thuộc sở hữu Nhà nước, những công ty niêm yết trên Thị trường chứng khoán cũng đang là những đầu mối hút vốn gián tiếp quan trọng. thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bắt đầu có những sự khởi sắc nhất định trong giai đoạn vừa qua.
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có 41 công ty niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần tháng 7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm tỷ trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít nhất 7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ chiếm tỷ trọng ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
Sự phát triển chung của cả nền kinh tế cùng những cải cách mạnh mẽ về thể chế và khuôn khổ pháp lý trong nỗ lực gia nhập WTO đã được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý.
4. Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất nước .
Theo các lý thuyết về đầu tư như : lý thuyết về đầu tư , lý thuyết gia tốc đầu tư , lý thuyết q về đầu tư thì vốn có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế.
Như ta đã biết thì vốn được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau trong đó có thị trường vốn . Theo tính chất bắc cầu trong kinh tế thì thị trường vốn cũng có một tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước
Ta có thể thông qua hình vẽ dưới đây để có thể hiểu được tầm quan trọng của vốn đầu tư với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
vốn đầu tư
Từ bảng trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư tác động tới sự tăng trưởng kinh tế .
Khi nguồn vốn đầu tư tăng thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng , từ đó làm tăng tổng thu nhập quốc dân , làm cho GDP tăng từ đó làm cho nền kinh tế tăng trưởng .
Tuy nhiên khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì kinh tế không thể tăng trưởng thêm đựơc do nền kinh tế còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau như : lao động , tài nguyên thiên nhiên, hay chính sách tài khoá của chính phủ .
Nước ta xuất phát từ một nước nghèo nàn và lạc hậu thì nguồn vốn lại là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Không có tiền chúng ta không thể làm được gì , không có tiền chúng ta không thể mọc thêm các nhà máy sản xuất , không thể tận dụng nguồn lao động dồi dào của nước ta , không thể tận dụng những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta .
Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn là một điều rất quan trọng. Chính phủ đã cố gắng tạo ra những cơ chế chính sách hợp lý tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh của đất nước ta, để có thể phát huy tối đa mọi khả năng và nguồn lực của đất nước.Và, cũng từ đó thì thị trường vốn cũng dần dần mở cửa khi chúng ta hội nhập kinh tế thế giới.
Thị trường vốn của nước ta trong những năm qua có sự phát triển mạnh mẽ vượt bậc so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể thấy rất rõ trên thị trường vốn quốc tế. Mặc dù, thị trường vốn của ta còn non trẻ nhưng bước đầu khi hội nhập kinh tế thế giới đã khẳng định được vai trò của mình trên trường quốc tế.
Hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được thành công như của Việt Nam" là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đưa ra. Bằng chứng là ngay ngày đầu tiên tại Hong Kong (19.10), số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã đạt khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26.10, sau khi Chính phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã tăng lên tới hơn gấp 3 lần từ mức trên 1 tỷ USD lên khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá trái phiếu, 29/10, số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã lên tới con số kỷ lục 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6 lần mức Chính phủ Việt Nam phát hành trong đợt này. Đặc biệt, có ngân hàng của Malaysia còn dùng cả tiền dự trữ để tham gia mua 50 triệu USD. Điều này chứng tỏ, sức hút mạnh mẽ của trái phiếu Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế.
Ngoài ra thì cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết (CTNY) đều đạt những kết quả khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE, Gemadept, Sacom … đều hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm. Một số công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đã thành công trong việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên cạnh đó, nhờ thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng khoán cũng đa dạng hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm.
Qua đó chúng ta đã giải quyết được tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước hiện nay. Và hiện nay thì chính phủ đang có đề án tiếp tục phát hành trái phiếu thêm 500 triệu đôla để kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp trong vốn . Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là khi có vốn thì làm sao có thể phát huy được tối đa những nguồn vốn đó.
5. Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ đầu tư.
Trước kia khi chưa có thị trường vốn thì các nhà đầu tư thường không có nhiều cơ hội đầu tư, nhất là những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ , những người có vốn nhàn rỗi .
Hiện nay , khi thị trường vốn xuất hiện thì đã tạo ra rất , rất nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư. Chỉ tính riêng trên thị trường chứng khoán hiện nay đã có trên 40 doanh nghiệp cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và còn rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường OTC. Chính điều này đã làm tăng khả năng cạnh tranh nhau về vốn trên thị trường vốn. Chẳng hạn ,trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank, ACB, Eximbank… Cùng với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự “bùng nổ” và đã thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư cũng như của toàn bộ người dân.
Tuy nhiên thì số lượng nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán chưa nhiều như mong đợi, diễn biến giao dịch trên thị trường có những giai đoạn trầm lắng, nhiều công ty vẫn còn tình trạng thiếu minh bạch trong công bố thông tin khi đấu giá bán cổ phần lần đầu ra công chúng
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có 41 công ty niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần tháng 7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm tỷ trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít nhất 7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ chiếm tỷ trọng ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
6. Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế vi mô.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, của chính phủ và địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.
Thị trường vốn hoạt động dựa theo những tín hiệu của thị trường như lãi suất , hệ số tín nhiệm, độ rủi ro. Thị trường vốn như một cái van điều tiết của nền kinh tế, điều tiết từ nơi sử dụng vốn không hiệu quả sang đến nơi sử dụng vốn có hiệu quả hơn, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Do đó thị trường vốn đã góp phần giúp chính phủ và các tổ chức tài chính điều tiết cho nền kinh tế.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ và các địa phương có thể huy động vốn cho các dự án đầu tư vào các công trình của mình hoặc huy động vốn cho ngân sách bằng việc phát hành các loại công cụ nợ như trái phiếu, công trái… nhìn từ thực tế ta thấy đây là hình thức huy động vốn rất tích cực, nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do không phải phát hành thêm tiền vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu .
Thực tế đã chính minh điều đó rất rõ, từ khi xuất hiện thị trường vốn thì thị trường tài chính của Việt Nam đã được ổn định rất nhiều , không còn những biến động quá lớn trên thị trường tài chính, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước. trên thị trường vốn thì bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá do vậy mà người sử dụng vốn phải quan tâm rất nhiều đến khả năng sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
Khi đất nước ta chưa có cải cách kinh tế thì tình hình tài chính của Việt Nam rất rối ren, và mang tính khó lường. Tỉ lệ lạm phát tăng cao, có khi đến hàng trăm phần trăm, người dân không dám cầm tiền mặt trong tay do sợ mất giá đồng tiền , từ đó kinh tế chậm phát triển ,đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng còn hiện nay, do có những chính sách tài chính ổn định cùng với sự xuất hiện của thị trường vốn thì thị trường tài chính của Việt Nam đã ổn định đi rất nhiều , không còn những con số lạm phát cao như trước đây nữa mà thay vào đó là tỉ lệ lạm phát luôn luôn nằm trong phạm vi được kiểm soát .
Thông qua thị trường vốn thì chính phủ đã điều tiết và thực hiện những chính sách kinh tế của mình nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình và nhằm bình ổn giá cả , bình ổn thị trường tài chính , từ đó phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của doanh nghiệp ,của đất nước.
7. Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh của các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm của chính phủ và trên quan điểm của các doanh nghiệp thì thị trường vốn thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp , nhà nước và thị trường. Thị trường vốn như cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn huy động vốn và sử dụng vốn .
Do đó mà thông qua thị trường vốn mà các doanh nghiệp và chính phủ thường lấy tín hiệu từ thị trường vốn làm căn cứ điều chỉnh những chính sách và kế hoạch của mình cho phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường .
Với chính phủ thì phải ban hành những quy định và chính sách kinh tế ngày càng hợp lý hơn, ngày càng đi sâu đi sát vào tình hình trên thị trường vốn hơn. Chẳng hạn như : Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1/1/2005 của Chính phủ về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài giúp Chính phủ xây dựng một cơ chế quản lý nợ an toàn, hiệu quả, thống nhất, và mang tính chuyên nghiệp; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở đảm bảo sự nhất quán và đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp lý hiện hành, đảm bảo sự không phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn vốn của Chính phủ. Đạt được mục tiêu giám sát có hiệu quả hơn các nghĩa vụ dự phòng và rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách Nhà nước và dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đồng thời tiến dần tới áp dụng các thông lệ được quốc tế thừa nhận rộng rãi, nhằm hỗ trợ quá trình hội nhập kinh tế-tài chính khu vực và quốc tế của nước ta. Môi trường đầu tư được cải thiện thông qua việc đổi mới chính sách theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là việc ban hành Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Việc theo dõi, thu thập, xử lý thông tin quản lý đảm bảo thường xuyên, kịp thời đối với mọi hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý. Quy trình huy động, đàm phán ký kết các Hiệp định vay, thủ tục giải ngân, thanh toán, thu hồi vốn, trả nợ từ nguồn vốn nước ngoài đã được cải tiến theo hướng giảm bớt thủ tục, thời gian và từng bước hài hoà với thông lệ quốc tế. Việc bố trí sử dụng vốn đã được quy định một cách rõ ràng, trong đó xác định rõ những loại dự án nào được ngân sách Nhà nước cấp, dự án phải vay lại, đồng thời tăng thêm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc vay vốn thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp, gắn trách nhiệm sử dụng vốn hiệu quả, tạo ra khả năng trả nợ và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và viện trợ nước ngoài
Đối với các doanh nghiệp thì thị trường vốn là một căn cứ rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là với các công ty cổ phần , các công ty trách nhiệm hữu hạn có quy mô vốn hầu hết là vừa và nhỏ. Để tăng quy mô sản xuất thì các doanh nghiệp cần phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau,và một trong những yếu tố là cần phải tăng quy mô vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty. Để có thể tăng quy mô vốn cho việc sản xuất của mình thì có thể áp dụng nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như vay vốn của tổ chức tín dụng, tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước, hay thế chấp tài sản của doanh nghiệp khi vay vốn của ngân hàng… nhưng hầu hết các biện pháp trên đều gặp rất nhiều khó khăn khi huy động vốn do có nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn muốn vay vốn của ngân hàng thì các doanh nghiệp phải có dự án cụ thể có khả năng thu hồi vốn cao, nếu không phải thế chấp bằng tài sản hiện có của công ty, nếu doanh nghiệp muốn được nhận trợ cấp từ chính phủ thì phải qua rất nhiều khâu, nhiều giai đoạn khác nhau mới có thể nhận được nguồn vốn từ ngân sách. Hiện nay thì nguồn vốn ngân sách không còn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO do đó các doanh nghiệp sẽ phải huy động vốn trên thị trường vốn. Chính thị trường vốn sẽ là nơi huy động vốn một cách tốt nhất , đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng về vốn cho các doanh nghiệp. Và cũng chính thị trường vốn là căn cứ , là tín hiệu , là công cụ dự báo chu kì kinh doanh cho các doanh nghiệp khi đi quyết định đi vay vốn.
II .Tình hình thu hút vốn trên thị trường vốn
1. Toàn cảnh thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn .
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã được 6 năm hình thành và phát triển. Trong đó, khi mở cửa để đón các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đều đã nghiên cứu khá kỹ lưỡng thị trường này. Việt Nam được xem như là “một Trung Quốc Mới” như nhận định gần đây của một số tờ báo.
Tuy nhiên, khoảng cách của Việt Nam và các nước trong khu vực còn khá xa. Đặc biệt về độ lớn của thị trường và số lượng chứng khoán niêm yết. Toàn bộ giá trị thị trường hiện nay nằm ở mức 5.3 tỷ USD. Và với thói quen đầu tư của người Việt hiện nay, số tiền còn “dự trữ dưới gối” là con số rất lớn lên đến hà