Đề tài Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Đổi mới là quá trình sáng tạo không ngừng, cách mạng là sáng tạo. Công cuộc đổi mới ngày càng đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần sáng tạo không ngừng của chủ thể. Trước hết là của đội tiên phong cách mạng. Đại hội VI của Đảng( 1986) quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đây là sự lựa chọn hợp quy luật, tạo bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

doc19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2791 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận triết. Lời mở đầu. Đổi mới là quá trình sáng tạo không ngừng, cách mạng là sáng tạo. Công cuộc đổi mới ngày càng đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần sáng tạo không ngừng của chủ thể. Trước hết là của đội tiên phong cách mạng. Đại hội VI của Đảng( 1986) quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đây là sự lựa chọn hợp quy luật, tạo bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sau 18 năm vừa tìm tòi vừa phải tự vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để đổi mới tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đến nay bằng những thành tựu của mình đủ để chúng ta khẳng định tính đúng đắn của những đường lối, chiến lược của Đảng và nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay. Ngay từ đầu, Đảng ta xác định đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Coi đổi mới kinh tế là trọng tâm, Đảng ta chuyển cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mấu chốt của sự đổi mới này là thiết lập cơ chế mới, thừa nhận trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế ấy phát triển vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chính nhờ đường lối đó mà chỉ 18 năm đổi mới đã đem lại cho đất nước ta bộ mặt mới với sự rạng rỡ, phồn vinh làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế- xã hội, nhất là ổn định tình hình chính trị, kinh tế văn hoá phát triển quốc phòng vững chắc, mở rộng đối ngoại, vị thế đất nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Điểm nhấn mạnh là công cuộc đổi mới của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến rất phức tạp. Đảng ta chủ trương phải nhình thẳng vào sự thật, thấy rõ thực chất của những sai lầm chủ quan duy ý chí, không tôn trọng thực tế khách quan, không hành động theo quy luật của sự phát triển. Đảng ta yêu cầu phải khắc phục lối tư duy cũ, đổi mới tư duy, tìm kiếm những nhận thức và hành động mới cho chiến lược phát triển đất nước đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sự đổi mới tư duy đã định hướng đúng cho sự phát triển về chiều sâu của suốt quá trình đổi mới về sau. Thực tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội vưà là kết quả của đổi mới tư duy lại vừa đặt ra những yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở giai đoạn tiếp cao hơn. Song đây là quá trình không đơn giản, nó diễn ra cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái đúng và cái sai, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu để đi đến sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng toàn dân. Hơn lúc nào hết thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đứng trên tinh thần phủ định biện chứng để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề để từ đó đưa ra những đường lối, sách lược, chiến lược mang tính đúng đắn quyết định cả vận mệnh nền kinh tế, quyết định vận mệnh cả chế độ xã hội, cả đan tộc Việt Nam. Mặt khác nước ta sau khi dành chính quyền và bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa thực chất vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu là nền sản xuất nhỏ tự cấp tự túc. Nhưng khi khôi phục nền kinh tế lại không cho phép chúng ta gạt bỏ hoàn toàn quan hệ sản xuất cũ, như vậy là trái ngược với quy luật của sự phát triển. Mà đòi hỏi thiết yếu là phải sáng suốt để kế thừa một cách có chọn lọc những yếu tố tích cực, tiến bộ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũ, những yếu tố tiến bộ không thể phủ nhận của nền kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản và đặc biệt phải phát huy, bảo tồn và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc để góp phần xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chịu sự quản lí của nhà nước. Đó là lí do tôi lựa chọn đề tài: “Tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dung, xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam” 1: Phủ định biện chứng và tính kế thừa của phủ định biện chứng. 1.1: Phủ định biện chứng. _Phủ định biện chứng là gì? Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng đều trải qua quá trình sinh, trụ,dị, diệt với thời gian dài ngắn khác nhau .Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phat triển của sự vật. Không như vậy, sự vật không phát triển được.Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định. Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. _Phủ định biện chứng là gì? Trong lịch sử triết học,tuỳ theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết học co s quan niệm khác nhau về sự phủ định.Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên giữa các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ.Đó là phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân,là mắt khâu quan trọng trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. 1.2: Tính kế thừa của phủ định biện chứng Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật,nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ đi những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải toạ và phát triển những yếu tố hợp lí, tiến bộ tích cực của cái cũ, cho tham gia vào cái mới. Sự phát triển chẳng qua là sự biến đổi ttrong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trứoc, bổ sung thêm những mặt mới cho phù hợp với hiện thực. Điều đó nói lên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa.Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tôt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. 2: Vận dụng, phát huy tính kế thừa của phủ định biện chứng trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 2.1: Công cuộc đổi mới kinh tế ở Viêt Nam. 2.1.1: Bối cảnh lịch sử Trong khoảng hai thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế giới co bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm: Tốc độ tăng trưởng nhanh và khá ổn định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm.Nhưng từ giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80(thế kỷ XX) “ thế giới đang trải qua một trong những cuộc khủng hoảngkinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của mình”. Từ thập kỉ 80, toàn cầu hoá là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại. Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh hoặc cải cách kinh tế ở các mức độ và hình thức khác nhau. ở các nước tư bản phát triển, từ đầu những năm 80 đã bắt đầu tiến hành điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản của điều chỉnh kinh tế ở các nước này là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển các ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua công cụ chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Họ thực hiện tư nhân hoá nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, tăng cường vai trò kinh tế tư nhân. Còn ở một số nước đang phát triển, quá trình điều chỉnh kinh tế cũng diễn ra nhất là ở một số nước Đông Nam á và Đông á. Từ đầu những năm 70 của thế kỉ 20 các nước này đã thực hiện cải cách kinh tế và trở thành khu vực phát triến năng động của thế giới. Ơ các nước xã hội chủ nghĩa, trước những khó khăn của nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Đông Âu , Trung Quốc đã tiến hành cải cách kinh tế. Cải cách ở các nước này đã diễn ra ở các thời điểm khác nhau song đều có nét chung là nhằm khắc phục sự trì trệ của nền kinh tế do hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cuộc cải cách đó ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1985 và các nước Đông Âu không đạt được kết quả như mong muốn, dần dần dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ cả chế độ kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, cải cách và mở cửa kinh tế ở Trung Quốc từ những năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng nhanh, mức sống của nhân dân được nâng lên đáng kể Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới từ cuối thập kỷ 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển sôi động của kinh tế thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình đó. 2.1.2: Yêu cầu của đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Bảo đảm sự thống nhất quan hệ về sở hữu với quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ về phân phối trong xây dựng quan hệ sản xuất mới trong quá trình đổi mới kinh tế. Việc tìm tòi, thử nghiệm,xây dựng chế độ công hữu diễn ra từng bước gắn liền với việc xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu,bao cấp. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là thực hiện phân phối chủ yêu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khácvào sản xuất, kinh doanh thông qua phúc lợi xã hội. Tạo những hình thức kinh tế bảo đảm sự gắn bó sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân trong chế độ công hữu.Thực tiễn đổi mới cho thấy, trong chủ nghĩa xã hội, sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất không chỉ tồn tại trong thành phần kinh tế cá thể mà cồn trong kinh tế công hữu.Đó cũng là tinh thần của C.Mac khi ông cho rằng: sở hữu tư nhân mà biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất là sở hữu tư sản, là sự phủ định sở hữu cá nhân của người lao động. Vì vậy, chế độ công hữu khi phủ diịnh tư sản nó không khôi phục sở hữu tư nhân mà lại khôi phục sở hữu cá nhân người lao động. Xây dựng chế độ công hữu từng bước và có bước đi thích hợp. Ph. Ănghen đã khẳng định, không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức như thể không thể làm cho lực lượng sản xuất phát triển ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. 2.2: Tính kế thừa của phủ định biện chứng với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 2.2.1: Kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trước thời kỳ đổi mới, suốt nhiều thập kỷ,Việt Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác, thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội hành chính bao cấp dựa trên quan niệm lúc bấy giờ là chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, viẹc áp dụng mô hình này đã thực sự mang lại những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Chúng ta đã huy động mọi lực lượng, tập trung vừa đánh bại cuộc chiến tranh rất ác liệt do đế quốc Mỹ gây ra, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng cho chủ nghĩa xã hội. Thực tế mô hình chủ nghĩa xã hội này,nhất là thời kỳ 10 năm sau ngày giải phóng miền Nam (1976 – 1986) đã chứng tỏ những điều không phù hợp với quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế ( quốc doanh, tập thể ) đã kìm hãm sức sản xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không được phát huy,các vấn đề mấu chốt của đời sông nhân dân không được giải quyết.Vì thế chúng ta không tạo ra những thay đổi ;không tạo ra được sự bứt phá trong phương hướng phát triển bền vững; không tạo ra nguồn sinh lực mới cho xã hội. Tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng,nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực sáng tạo. Tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực quý giá khác chậm được khai thác, sản xuất và đời sống ngày càng suy giảm …dẫn đến tình trạng trì trệ trong xã hội. Thực tế cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Tuy vậy, xét cho cùng, khi nước ta bắt đầu bắt tay vào đổi mới, nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa thì việc kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực hợp lý của cơ chế cũ là rất cần thiết và không thể phủ nhận.Chúng ta đổi mới nhưng không phủ định sạch trơn. Trong sản xuất nông nghiệp, Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Đây là một hình thức quản lý tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu cồn là thủ công và là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ thị 100 có tác dụng gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã phát huy tốt hơn khả năng lao động, tạo ra được khí thế lao động sôi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn, vật tư, chú trọngcác biện pháp thâm canh,tăng năng suất,tăng thu nhập, giải quyết tốt việc kết hợp 3 lợi ích ( lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân )cho nên chỉ thị đó nói chung đã là một động lực thúc đẩy đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Song, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cộng với sự yếu kém về tổ chức, quản lý của hợp tác xã cũng ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện khoán sản phẩm. Vì thế, giai đoạn đổi mới kinh tế trong sản xuất nông nghiệp kế thừa và hoàn thiện dần chế độ khoán sản phẩm. Kinh tế hợp tác vẫn được giữ lại nhưng hợp tác xã chỉ làm một số khâu dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm cho xã viên.Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo Luật Hợp tác xã (ban hành 1997). Về đổi mới các công cụ và chính sách quản lý kinh tế kế hoạch hoá trong cơ chế cũ được coi là công cụ chủ yếu nhất để quản lý kinh tế. Thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch nhà nước từ Trung ương đến địa phương để xây dựng kế hoạch giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ sở kinh tế ,điều hành, theo dõi thực hiện và xét duyệt việc hoàn thành kế hoạch mà nhà nước có thể “chỉ huy” được nền kinh tế. Việc thực hiện cơ chế đó đến đầu thập kỷ 80 đã trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá trong thời kỳ đổi mới được cải tiến dần theo hương chuyển từ kế hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hoá gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết kinh tế bằng các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô để dẫn nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn… 2.2.2: Kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức,văn hoá truyền thống trong phát triển kinh tế mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội hiện nay được Đảng ta xác định là: “vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”. Thật vậy, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở một nước mà cho đến nay, có thể nói, vẫn đang là một nước nghèo lạc hậu thì trước tiên chúng ta phải chú trọng phát triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu. Song sẽ là sai lầm nghiêm trọng với những hậu quả khó lường một khi tăng trưởng kinh tế lại không gắn liền với phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Để có một nền kinh tế phát triển nhanh, lành mạnh và vững chắc, chung ta không thể chỉ trông chờ vào các động lực kinh tế thuần tuý, chỉ dựa vào các động lực kinh tế thuần tuý ấy. Bởi lẽ, thực tiễn cho thấy, môi trường văn hoá và cùng với nó, môi trường xã hội,chính trị và cả bối cảnh kinh tế cũng đã trở thành những tác nhân hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Với tư cách là cái phản ánh và thể hiện một cách tổng quát mọi mặt của đời sống con người, của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc, là thước đo: “trình độ người” trong các mối quan hệ xã hội. Văn hoá thể hiện vai trò động lực của nó qua việc làm cho con người phát triển toàn diện, trở nên phong phú về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, lối sống, mang lại cho con người nhân cách cao đẹp, giúp con người thực hiện khát vọng vươn tới hệ giá trị chân – thiện - mỹ. Văn hoá làm cho chất lượng con người ngày một hoàn thiện, khả năng hoạt động sáng tạo của con người ngày một nâng cao, phương thức ứng xử của con người ngày một cao đẹp. Cùng với đó, bằng việc tham gia có hiệu quả vào quá trình “nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí”, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người,mang lại cho con người năng lực tư duy, khả năng tiếp thu cái mới, hiểu biết thực tiễn, văn hoá trở thành động lực không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Phát triển kinh tế thị trường, văn hoá kinh tế là cái không thể. Nó mang lại cho chúng ta kiến thức và sự hiểu biết về kinh tế thị trường, tạo ra ở chúng ta năng lực tư duy kinh doanh sáng tạo, hiệu quả. Nó còn là cái tạo ra môi trường tâm lý thuận lợi cho các hoạt độngkinh doanh làm giàu,phát triển các hoạt động giao tiếp xã hội về kinh tế. Văn hoá trong kinh doanh làm xuất hiện và phát triển tầng lớp kinh doanh giỏi, văn minh, có ý chí làm giàu, biết chấp nhận những rủi rổtng làm ăn chân chính để rồi thành đạt hơn trong sản xuất kinh doanh. Đó chính là lý do để chúng ta phát huy, kế thừa các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thốngtrong đổi mới kinh tế: _Kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước. Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, tinh thần yêu nước truyền thống phải được kế thừa và phát huy một cách cao độ hơn bao giờ hết, nhưng tinh thần đó cũng cần phải được bổ sung những nội dung và hình thức mới cho phù hợp. Đối với mỗi người dân Việt Nam ngày nay,yêu nước luôn là ý thức xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trước tiên, phải có lòng tự hào dân tộc, có ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị vật chất cũng như tinh thần mà dân tộc ta đã tạo dựng được từ bao đời nay. Trong xây dựng kinh tế, yêu nước chính là cố gắng phấn đấu,học tập, tu dưỡng,rèn luyện, lao đọng để làm ra ngày càng nhiêù vật chất cho xã hội. Yêu nước thúc đẩy mỗi người đem hết tài năng và trí tuệ của mình để làm giàu một cách chính đáng cho bản thân; Dù ở cương vị nào cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhiêm vụ của mình; Biết hưởng quyền lợi nhưng đông thời cũng phải thực hiện tốt mọi nghĩa vụ của công dân, phấn đấu góp phần đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. _Kế thừa và phát huy đức tính cần cù. Có thể nói, cần cù là một đức tính có truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Đức tính này được hình thành từ rất sớm, có nguồn gốc sâu xa và gắn với điều kiện hình thành và phát triển nhân dân và lối sống dân tộc. Hầu hết các từ điển Hán – Việt đều giải thích “cần cù”,có nghĩa là,dốc hết sức, chăm chỉ,siêng năng. Khi bàn về “ cần”,Bác Hồ trả lời: “cần tức là tăng năng suất trong công tá, bất kỳ công tác gì”. Còn theo GS. Trần Văn Giàu:” cần trước hết là làm việc. Phải làm việc siêng năng, làm việc có năng suất cao thì mới gọi là cần. Cần có nghĩa là siêng “.Như vậy khi nói đến khái niệm: “ cần cù”, cần chú ý đến mấy khía cạnh: Thứ nhất, cần là khái niệm chỉ sự làm việc của con người trong lĩnh vực sản xuất vật chất cũng như hoạt động tinh thần.Bác Hồ từng nói: “ cần trong vô luận nghề nghiệp, chức trách gì xưa gọi là cần nghiệp; cần trong lao động sản xuất xưa gọi là cần lao; Cần trong việc học hành xưa gọi là cần học”. Thứ hai,cần chỉ sự chịu khó làm việc, chăm chỉ, siêng năng, và đạt hiệu
Tài liệu liên quan