Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
35 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế vi mô của nhà nước trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a-/ Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
b-/ giải quyết vấn đề
chương I
tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế
I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử:
1-/ Nhà nước chủ nô:
Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ làm ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó không phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này Nhà nước có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh tế.
2-/ Phong kiến:
Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn đứng ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà nước đã khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở Việt Nam đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công nguyên. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến đối với ruộng đất cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông dân trong sự lệ thuộc vào địa chủ.
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là phương tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện quyền thống trị đối với toàn xã hội.
3-/ Tư sản:
Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản quá trình tích luỹ nguyên thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy, vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác định rõ vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần.
Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà thôi. Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm soát của mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền nhỏ chạy ra ngoài lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nhiên liệu, cũng như các hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải, tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới, nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống của nền kinh tế này.
4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các hình thức sở hữu hợp pháp khác.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) ở thời kỳ đầu mới xuất hiện đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi CNTB phát triển đến giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, đã trở nên mâu thuẫn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Mâu thuẫn đó đòi hỏi một cuộc cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX). Cuộc cách mạng về QHSX ấy tất yếu dẫn đến sự thay đổi Nhà nước.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và QHSX biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nền sản xuất TBCN đã tạo ra những tiền đề làm cho giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như về tính tổ chức, kỷ luật. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội có sứ mạng lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động làm cách mạng, xoá bỏ Nhà nước tư sản, xây dựng Nhà nước XHCN.
Bản chất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế và đặc điểm về quyền lực trong CNXH quyết định. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là tổng thể các QHSX được hình thành trên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định hướng XHCN trước sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Các kiểu Nhà nước khác trong lịch sử đều dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là công cụ bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức XHCN.
II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của các nhà kinh tế học cổ điển, tân cổ điện, Keynes:
1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển:
Mầm mống tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục phát triển trong lý thuyết tự nhiên của phái trọng nông ở Pháp. Song nổi bật là A. Smith (1723-1790) một nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, Ông đã đưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông phát triển kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối sự hoạt động của thị trường, là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông còn cho rằng mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích của bản thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội và điều này nằm ngoài ý định của các nhà kinh doanh. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình” song A. Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong các trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn,...
Thực tế chỉ ra là nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có một cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại. Điều này đã làm cho các nhà kinh tế học thời kỳ này thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao xã hội hoá càng mở rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế. Song, họ vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế thị trường, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể làm kìm hãm hay thúc đẩy ở mức độ nhất định sự hoạt động của nó.
Nhưng vào những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) cho thấy “Bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Thêm vào đó trình độ xã hội hoá phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.
2-/ Quan điểm của Keynes:
Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý thuyết nền kinh tế thị trường. Theo J.M Keynes sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập. Vì vậy cầu tiêu dùng giảm tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của hàng hoá, từ đó làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này sẽ dẫn đến nền kinh tế từ chỗ trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế và thị trường, phải huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu về cầu tăng lên, giá cả hàng hoá tăng, thu nhập tăng, tăng hiệu quả của tư bản đầu tư. Điều đó khuyến khích mở rộng đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp.
J.M Keynes và trường phái của ông cho rằng Nhà nước can thiệp vào kinh tế cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển,... ở tầm vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng.
Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là tuyệt đối không một cá nhân nào có thể thay thế.
3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp giữa “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”:
Paul Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ thuộc trường phái hiện đại. Ông có tư tưởng kết hợp “Bàn tay vô hình” với chức năng quản lý kinh tế Nhà nước để điều tiết nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả trong nhiều lĩnh vực trong khi Nhà nước điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả thị trường có tầm quan trọng ngang nhau. Sự phối hợp đó tạo nên nền kinh tế hỗn hợp.
4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”:
Trường phái này cũng mang tính chất hỗn hợp “Bàn tay vô hình” của thị trường và “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Tuy vậy tư tưởng can thiệp của Nhà nước cũng rất đa dạng. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa tự do muốn phát triển kinh tế tự do, Nhà nước chỉ can thiệp mức độ nhất định. Quan điểm của họ là tự do thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn. Trong khi đó các nhà tư tưởng Bắc Âu lại chủ trương tăng cường vai trò Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, xây dựng kiểu kinh tế thị trường xã hội.
Tư tưởng vai trò kinh tế Nhà nước được vận dụng vào các nước mang tính chất đặc thù. Như ở Mỹ ở đầu thế kỷ XX đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang đối với nền kinh tế. Vai trò của Chính phủ liên bang tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền, kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng Trung ương vừa làm chức năng dự trữ, vừa làm chức năng điều tiết, kiểm soát lượng tiền tệ được cung ứng thông qua ngân hàng thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, giao thông,...
ở Đức thì nền kinh tế thị trường được hình dung như một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ Nhà nước đóng vai trò là trọng tài, là người thiết kế “luật chơi” và dùng “luật chơi” để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tránh những tai hoạ khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Nhà nước rất tôn trọng quyền tự do cạnh tranh trên thị trường của các chủ doanh nghiệp, và chỉ giữ ở mức độ tối thiểu Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội.
5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền lực của Nhà nước như vai trò “bã đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới. F. Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983).
ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau,... Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. Nguồn thu của thuế khoá còn nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ theo đó là bảo vệ lợi ích và mở rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược hoặc bị mất đi ở nước ngoài.
Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình sản xuất như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái” (C. Mác - Ăngghen tuyển tập, tập V).
Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-ring” - C. Mác - Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982).
chương II
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
1-/ Ưu điểm:
Khi chúng ta nói được nhược điểm của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tức là ta đã chứng minh được rằng kinh tế thị trường có tiến bộ hơn, như vậy thì tiến bộ hơn ở chỗ nào? phải chăng đơn thuần chỉ là nền kinh tế tập trung được cải thiện hoá mà thôi.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là nơi để diễn ra sự cạnh tranh, sự đào thải của cái cũ để dẫn đến đưa mọi sự vật phát triển cao hơn. Nói đến kinh tế thị trường là nói đến sự cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, để giành sản xuất, tiêu dùng hàng hoá có lợi cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh đối với tất cả các ngành giữa người bán, người mua,...
Do vậy nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, để nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất giá thành rẻ, chất lượng cao, chỉ còn cách là nâng cao kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các hãng khác nhằm tối đa hoá lợi nhuận. C.Mác cũng đánh giá vai trò lợi nhuận đối với các nhà tư bản với tư cách là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Theo Mác, những nhà kinh doanh ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít chẳng khác gì giới tự nhiện ghê sợ chân không. Vậy mà cuộc sống lại đi lên hàng ngày vấn đề phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho năng suất lao động cá biệt và năng suất xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường tuy mới ra đời mấy năm lại đây nhưng bề thế đã tạo cho mình khá dầy dặn là một khối lượng, lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử xã hội loài người.
Thứ hai, kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng khi sản xuất một mặt hàng nào đó cái cần thiết là phải biết được thị hiếu của dân chúng, hãng nào sản xuất các mặt hàng lạ, đẹp mắt và hợp thời trang sẽ đạt nhiều lợi nhuận hơn. Muốn vậy có nhiều hình thức như quảng cáo, tiếp thị, thu nhập thông tin khi thấy mặt hàng của mình ít ưu chuộng hoặc là ưu chuộng giảm tức là cầu đang giảm dần thì người sản xuất phải ngừng ngay sản xuất lại. Chính điều đó dẫn tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách ngày càng được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, không kể tới nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều hàng hoá và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải thiếu hụt. Do nền kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của con người.
Thứ tư, đó là nơi thúc đẩy xã hội hoá và tập trung dân chủ cao, phân phối thu nhập hợp lý. Đúng theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Nhưng những mặt tốt của nó lại đi kèm những nhược điểm mà nó được gọi là những mặt trái của nền kinh tế thị trường.
2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, nếu nói rằng thị trường là nơi mà các thông tin phải rất nhạy bén và chính xác thì chỉ cần một thông tin lệch lạc hay sự “lỡ” sản xuất dẫn đến sản xuất mù quáng gây ra các cuộc khủng hoảng thừa và thiếu nghiêm trọng, có những lúc thị trường khan hiếm, nhưng có nhiều lúc lại quá thừa dẫn đến tình trạng đổ đi một cách quá lãng phí.
Thứ hai, chính thị trường cạnh tranh đó làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không theo kịp và tất nhiên sẽ có quá nhiều doanh nghiệp phải đi đến phá sản, phải đào thải công nhân, thất nghiệp tràn lan, dẫn đến các tệ nạn xã hội tăng lên đáng kể như: nghiện hút, cơ bạc,...
Thứ ba, cũng chỉ vì theo đuổi mục đích tối đa lợi nhuận mà các hãng kinh doanh sẽ chỉ đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao mà không quan tâm đến sự phát triển kinh tế như thế nào dẫn đến nền kinh tế có sự không cân đối