Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 
413 
_______ 
Tính toán nhu cầu nước các ngành kinh tế lưu vực sông Cầu 
Nguyễn Ý Như, Nguyễn Thanh Sơn*, Ngô Chí Tuấn 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010 
Tóm tắt. Nghiên cứu thực hiện tính toán nhu cầu sử dụng nước trong các ngành kinh tế thuộc lưu 
vực sông Cầu phục vụ trực tiếp cho bài toán cân bằng nước.Qua phân tích kết quả tính toán cho 
thấy nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế khu vực, chiếm đến 70% tổng nhu cầu 
nước của toàn lưu vực, đồng thời thấy được mức độ biến đổi mạnh của nhu cầu nước trong các 
lĩnh vực khác theo không gian và thời gian, cung cấp thông tin hỗ trợ cho các nhà chính sách trong 
quản lý bền vững tài nguyên nước. 
Từ khóa: Nhu cầu nước, Sông Cầu, CROPWAT 
1. Mở đầu∗ 
Tài nguyên nước gắn liền với các hoạt động 
đời sống của con người và các ngành kinh tế 
khác. Sự phân bố không đều theo cả không gian 
và thời gian của tài nguyên nước đã tác động 
đến nhu cầu và bài toán cung cấp nước. Thêm 
vào đó, sự cạnh tranh sử dụng nước ngày càng 
tăng cao giữa các ngành do tốc độ tăng dân số, 
công nghiệp và đô thị hóa. Vì thế để sử dụng tài 
nguyên nước hiệu quả đáp ứng nhu cầu của các 
ngành kinh tế khác nhau, tính toán nhu cầu 
nước phục vụ cho bài toán cân bằng nước là cần 
thiết, từ đó đưa ra lời giải cho bài toán quy 
hoạch và quản lý tài nguyên nước. 
Là một lưu vực mưa ít, mô đun dòng chảy 
chuẩn của lưu vực sông Cầu vào loại nhỏ, 
lượng mưa phân bố không đều theo không gian 
và thời gian dẫn đến tình trạng thiếu hụt nước, 
đặc biệt là vào mùa khô. Trong nghiên cứu này, 
sử dụng số liệu của 4 trạm (Bắc Cạn, Định Hóa, 
Hiệp Hòa, Thái Nguyên) từ năm 1961 đến năm 
2007 để làm đầu vào cho mô hình CROPWAT 
trong tính toán nhu cầu nước nông nghiệp và số 
liệu thu thập từ niên giám thống kê 2007 của 6 
tỉnh phục vụ tính toán nhu cầu nước cho các 
ngành kinh tế thông qua định mức dùng nước. 
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943 
 E-mail: 
[email protected] 
Mục tiêu chính của nghiên cứu là tính toán 
nhu cầu nước cho các ngành kinh tế phục vụ 
trực tiếp cho bài toán cân bằng nước. Đồng thời 
cung cấp một cái nhìn tổng quan về tình hình sử 
dụng nước và những vấn đề bức xúc trong khu 
vực, tính phức tạp của vấn đề được nhận định 
và hiểu một cách đầy đủ, khách quan, từ đó 
chuẩn bị hướng nghiên cứu cho tương lai và trợ 
giúp các nhà chính sách đối với bài toán sử 
dụng tài nguyên nước bền vững. 
2. Phương pháp tính 
Tính nhu cầu dùng nước cho các ngành 
kinh tế theo định mức quy định của các văn bản 
N.Y. Như và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 414
hiện nay được ban hành bởi các cơ quan chức 
năng của Nhà nước Việt Nam [1]. Riêng đối với 
nông nghiệp được đánh giá bằng mô hình 
CROPWAT. 
Mô hình được phát triển bởi FAO năm 1990 
để tính toán nhu cầu dùng nước, phục vụ các dự 
án quản lý và quy hoạch tưới. Mô hình thực 
hiện tính toán lượng bốc thoát hơi chuẩn, nhu 
cầu nước tưới của cây trồng để xây dựng kế 
hoạch tưới cho các điều kiện quản lý và cung 
cấp nước khác nhau. Nó cho phép đưa ra các đề 
xuất cải thiện thực tiễn tưới, kế hoạch tưới và 
đánh giá sản phẩm theo các điều kiện mưa hay 
độ thiếu hụt nước tưới. CROPWAT sử dụng 
phương pháp FAO (1992) Penman-Monteith để 
tính toán lượng bốc thoát hơi chuẩn theo công 
thức (1). Xây dựng lịch tưới và đánh giá thực 
tiễn tưới và mưa dựa vào cân bằng độ ẩm đất 
theo ngày với các lựa chọn cung cấp nước và 
quản lý tưới khác nhau. Lịch cung cấp nước 
tính toán cho các vụ mùa được cung cấp trong 
chương trình [2] 
( ) ( )
( )2
as2n
o u34.01
eeu
273T
900GR408.0
ET +γ+∆
−+γ+−∆= (1) 
ETo = bốc thoát hơi chuẩn [mm/day]; Rn = bức 
xạ thực ở bề mặt ruộng [MJ/m2.day]; G = dao 
động nhiệt của đất [MJ/ m2.day-1]; T = nhiệt độ 
không khí trung bình ngày ở độ cao 2 m [°C]; 
U2 = tốc độ gió ở độ cao 2 m [m/s]; es = áp suất 
hơi nước bão hòa [kPa]; ea = áp suất hơi nước 
thực tế [kPa]; es - ea = độ hụt áp suất hơi nước 
bão hòa [kPa]; ∆ = độ dốc đường cong áp suất 
hơi nước [kPa °C-1]; và a = hằng số độ ẩm [kPa 
°C-1]. Trong mô hình có 4 lựa chọn phương 
pháp tính mưa hiệu quả: 1) Cố định tỉ lệ phần 
trăm lượng mưa hiệu quả, 2) Công thức kinh 
nghiệm của FAO/AGLW, 3) Công thức kinh 
nghiệm với các hệ số kinh nghiệm được xác 
định theo số liệu cụ thể của từng địa phương và 
4) Công thức kinh nghiệm theo cơ quan bảo vệ 
đất của Mỹ. Trong nghiên cứu này sử dụng 
công thức kinh nghiệm của FAO: Với lượng 
mưa thực tế P tot < 70 mm thì lượng mưa hiệu 
quả Peff được tính:: 
Peff = 0.6 Ptot – 10 (2) 
khi P tot ≥ 70 mm thì: 
Peff = 0.8 Ptot – 24 (3) 
3. Kết quả và thảo luận 
Sử dụng nước biến đổi giữa các khu vực do 
sự khác biệt về điều kiện khí hậu, điều kiện tự 
nhiên, tập tục và tình hình kinh tế. 
3.1. Trồng trọt 
Nhu cầu nước cho nông nghiệp, đặc biệt là 
trồng trọt, là loại nhu cầu nước phổ biến nhất ở 
các tiểu vùng trên lưu vực sông Cầu và nhiều 
nơi khác. Nhu cầu nước cho nông nghiệp tạo áp 
lực lớn tương đối lớn đối với tài nguyên nước 
thông qua khai thác trực tiếp - cung cấp nước 
tưới, là yếu tố quan trọng trong bài toán cân 
bằng nước và quản lý bền vững nguồn nước. 
Diện tích đất trồng trọt biến đổi lớn giữa 
các khu vực về giá trị (hình 1, 2). Trên hình 1 ta 
có thể quan sát thấy diện tích đất nông nghiệp 
có xu hướng phân bố tăng dần từ khu vực phía 
Bắc đến khu vực phía Nam sông Cầu, từ Đông 
sang Tây, đánh dấu sự tương phản giữa các khu 
vực Bắc và Nam, Đông và Tây của lưu vực. 
Điều này gây ảnh hưởng lớn đến phân bố nhu 
cầu nước tưới cho nông nghiệp trên cả lưu vực 
cũng như 16 tiểu vùng như hình 3. Ảnh hưởng 
này được thể hiện rõ hơn qua phân bố diện tích 
trồng trọt (hình 2) và nhu cầu nước nông nghiệp 
(hình 3). Theo kết quả tính toán, nhu cầu tưới 
nhiều nhất ở khu hạ sông Cầu (524.9 triệu m3), 
chiếm đến hơn 90% tổng lượng nước tưới trên 
lưu vực. Bên cạnh đó, sự thay đổi diện tích đất 
nông nghiệp theo thời gian trên từng tiểu vùng 
hay thời vụ là nguyên nhân dẫn đến xu hướng 
N.Y. Như và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 415
phân bố khác nhau của nhu cầu nước theo thời 
gian trong năm diễn ra với 3 xu hướng chính ở 
3 khu vực Thượng, Trung và Hạ sông Cầu 
(hình 4). 
Hình 1. Diện tích đất nông nghiệp (tô đậm) và 
sử dụng khác (nhạt) năm 2007 lưu vực sông Cầu. 
Cụ thể, ba tiểu vùng nằm ở thượng sông 
Cầu có chung một xu thế biến đổi, thấp nhất 
vào tháng VII, và cao nhất vào thời kỳ tháng 
IV, tháng IX là thời kỳ bắt đầu và kết thúc mùa 
mưa trong lưu vực. Trong khi đó xu thế biến 
đổi cho 6 tiểu vùng nằm ở phần trung sông Cầu 
lại có xu hướng nhu cầu nước tăng mạnh từ 
tháng II đến tháng X, đỉnh điểm là vào tháng 
VIII. Ở khu vực hạ sông Cầu có chung một xu 
hướng khác, nhu cầu nước tăng vọt vào tháng 
X, riêng khu IV2 có thêm một đỉnh vào thời kỳ 
tháng VI (xấp xỉ 83 triệu m3), nhưng lại giảm 
mạnh vào thời kỳ sau đó, chỉ dao động trong 
khoảng 0.2 đến 1 triệu m3. 
Trong từng khu vực nhu cầu nước cũng 
biến đổi tương đối lớn, dao động từ chỉ khoảng 
0.2 triệu m3 ở khu I2 đến khoảng 6 triệu m3 ở 
khu I3. Trên hình đưa ra nhu cầu nước khu I2 
làm đại diện có giá trị nhu cầu nước trung bình 
biến đổi trong khoảng 3 triệu m3. 
Hình 2. Tỉ lệ diện tích đất nông nghiệp và đất 
sử dụng khác lưu vực sông Cầu. 
Tình hình cũng tương tự ở 2 khu vực còn 
lại, nhưng sự dao động giữa các tiểu vùng nằm 
ở khu hạ sông Cầu biến đổi mạnh hơn. Cường 
độ tưới ở các tiểu vùng khác nhau biến động 
mạnh cả theo không gian và thời gian bên cạnh 
yếu tố phân bố diện tích đất nông nghiệp còn 
chịu ảnh hưởng của điều kiện khí hậu và thời vụ 
từng loại cây trồng. 
Hình 3. Tổng nhu cầu nước cho trồng trọt năm 2007 
trên các tiểu vùng. 
N.Y. Như và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 416
Nhu cầu nước cung cấp cho tưới trên toàn 
bộ lưu vực xấp xỉ 1.3 tỉ m3/năm. Trong đó hầu 
hết các tiểu vùng nhu cầu nước cung cấp nhiều 
nhất cho vụ lúa và ngô, điều đó có nghĩa là lưu 
vực sông Cầu, loại cây chủ đạo là lúa và ngô. 
Ngoài ra thay đổi theo không gian, từng tiểu 
vùng còn có thêm loại cây chủ đạo khác ví dụ 
như cây công nghiệp ở khu vực bắc sông Cầu, 
chè ở miền trung lưu vực. Khu hạ sông cầu còn 
có các loại cây chủ đạo khác như cây ăn quả, 
khoai, sắn, lạc, đậu... trong đó rau xanh cũng 
chiếm tỉ lệ tương đối lớn ở khu vực này. 
Hình 4. Nhu cầu nước cho trồng trọt theo tháng năm 
2007 tiểu vùng III2. 
3.2. Nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, đô 
thị, thương mại, du lịch, dịch vụ, công nghiệp 
và chăn nuôi. 
Nguồn nước cung cấp cho sinh hoạt và các 
hoạt động đô thị phải cạnh tranh với trồng trọt, 
môi trường và cả các ngành kinh tế khác. Trong 
khi nước tưới cho nông nghiệp chiếm một 
lượng lớn, vấn đề nhu cầu nước sinh hoạt và đô 
thị tạo nên thách thức đối với các nhà quy 
hoạch trong vấn đề tìm nguồn cung cấp nước 
thích hợp đáp ứng được những nhu cầu này. 
Sự thay đổi dân số, mật độ và phân bố dân 
cư là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến 
nhu cầu nước, đặc biệt là nhu cầu nước sinh 
hoạt. Trên hình 5 có thể thấy sự khác biệt lớn 
trong loại nhu cầu này giữa các tiểu lưu vực, 
lượng nước tiêu thụ lớn nhất trung bình tháng 
hơn 2 triệu m3 ở tiểu vùng IV2 trong khi đó 
lượng nước tiêu thụ thấp nhất ở tiểu vùng I6 chỉ 
ở mức dưới 0.03 triệu m3. 
Hình 5. Phân bố nhu cầu nước tháng cho sinh hoạt 
năm 2007. 
Nước sử dụng cho hoạt động đô thị cũng 
như các hoạt động thương mại, du lịch , dịch 
vụ, công nghiệp và chăn nuôi đều có cùng dạng 
phân bố theo không gian tương tự nhu cầu nước 
cho sinh hoạt và cũng có cùng dạng phân bố 
nhu cầu nước cho nông nghiệp, nhưng biến đổi 
lớn về lượng. Nhu cầu nước cho các hoạt động 
đô thị chỉ chiếm hơn khoảng một nửa nhu cầu 
nước sinh hoạt, dao động từ 2800 m3 đến hơn 
1.1 triệu m3. 
Du lịch đóng vai trò quan trọng như sự tăng 
lên dân số theo mùa gây áp lực đối với tài 
nguyên nước thông qua tiêu thụ nước trực tiếp 
hay thông qua cung cấp nước cho các nhà du 
lịch. Mặc dù trong thời gian qua, du lịch đã phát 
triển thành một nhánh quan trọng trong nền 
kinh tế khu vực, nhưng nhu cầu nước chỉ chiếm 
một lượng nhỏ, khoảng 1/10 nhu cầu nước sinh 
hoạt, xấp xỉ 9 triệu m3 trên toàn lưu vực. So với 
3 loại nhu cầu trên thì công nghiệp chiếm lượng 
lớn hơn, từ nhu cầu thấp nhất hơn 5000 m3 đến 
gần 6 triệu m3. Tổng lượng nước cung cấp cho 
hoạt động công nghiệp xấp xỉ 113 triệu m3/năm, 
trong lĩnh vực này nhu cầu nước biến đổi giữa 
các tiểu lưu vực là do chỉ có một số ít khu công 
N.Y. Như và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 417
nghiệp hoạt động với công suất lớn, các nhà 
máy tập trung chủ yếu ở khu vực Sóc Sơn, Hà 
Nội và Thái Nguyên, gần 100 nhà máy, xí 
nghiệp cùng rất nhiều cơ sở sản xuất tư nhân. 
Bên cạnh đó, nhu cầu nước cho chăn nuôi 
chiếm một lượng gần bằng nhu cầu nước cho 
sinh hoạt, khoảng 103.2 m3/năm. Vì nhu cầu 
nước ít hơn công nghiệp nên độ chênh lệch giữa 
các tiểu vùng ở khu hạ sông Cầu giảm. 
Hình 6. Nhu cầu nước tháng cho hoạt động 
GT&BVMT 2007. 
Hình 7. Nhu cầu nước tháng cho hoạt động 
thủy sản 2007. 
3.3. Giao thông thủy và bảo vệ môi trường, thủy 
sản. 
Khác với nhu cầu nước của các ngành kinh 
tế nêu trên, nhu cầu sử dụng nước cho giao 
thông thủy và bảo vệ môi trường phân bố đồng 
đều hơn giữa các tiểu vùng, ngoại trừ cực tiểu ở 
khu vực IV2, III2, là tiểu vùng nằm ở khu vực 
thành phố Hà Nội và một số cực đại tập trung 
chủ yếu ở khu vực trung sông Cầu. Do lượng 
nước dùng cho môi trường, giao thông thủy và 
đẩy mặn là lượng nước cần để duy trì sức sống 
của dòng sông. Một cách gần đúng có thể coi 
đây là lượng nước cần để duy trì dòng chảy môi 
trường. Nhu cầu nước cho giao thông thủy và 
bảo vệ môi trường được lấy bằng 95% tổng 
lượng nước mùa kiệt trong đó: các tháng mùa 
kiệt có tần suất đảm bảo từ 95% trở xuống sẽ 
không được sử dụng. Vì thế có thể nói tài 
nguyên nước ở vùng lưu vực sông Cầu phân bố 
nhiều ở vùng miền trung lưu vực, và phân bố 
khá đồng đều trên lưu vực. 
Riêng trong lĩnh vực thủy sản, vì là khu vực 
nằm xa biển nên chỉ có hoạt động thủy sản 
nước ngọt ở một số tiểu vùng ở bắc khu thượng 
sông Cầu, nhu cầu nước trong lĩnh vực này 
chiếm lượng không đáng kể, khoảng 36 triệu m3 
cho toàn lưu vực. 
Hình 8. Biểu đồ phân bố cơ cấu dùng nước của 
các hộ dùng nước trên lưu vực. 
Từ các kết quả thể hiện trên hình 8 thấy rõ 
trồng trọt vẫn là ngành kinh tế chủ đạo. Nhu 
cầu nước cho trồng trọt xấp xỉ 70% tổng lượng 
nước tiêu thụ trên toàn lưu vực, trong khi đó 
lượng nước cung cấp cho du lịch chiếm không 
đến 1% trong tổng nhu cầu nước, lĩnh vực hoạt 
động ít nhất trong các ngành kinh tế trong khu 
N.Y. Như và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 413‐418 418
vực. Nhu cầu nước cho các hoạt động thương 
mại, du lịch, dịch vụ và chăn nuôi xấp xỉ nhau, 
9.06 và 8.28% tương ứng. Bên cạnh hoạt động 
du lịch, hoạt động thủy sản trong khu vực cũng 
diễn ra chỉ ở một số tiểu vùng, chiếm 2.9% tổng 
nhu cầu nước. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu sử dụng mô hình CROPWAT 
để tính nhu cầu nước cho trồng trọt và các 
ngành dùng nước khác thông qua định mức 
dùng nước. Từ đó có thể rút ra một số kết luận 
sau, thứ nhất nhu cầu nước giữa các ngành biến 
đổi rất mạnh, từ vài triệu cho đến tỉ m3 nước. 
Thứ hai, trong các yếu tố được đề cập đến, yếu 
tố gây áp lực lớn nhất đối với tài nguyên nước 
là nông nghiệp [3], mà quan trọng nhất là nhu 
cầu nước tưới chịu ảnh hưởng mạnh của diện 
tích nông nghiệp cũng như thời vụ cây trồng. 
Tổng lượng nước cần cung cấp cho nông 
nghiệp chiếm đến gần 70% tổng nhu cầu nước 
tiêu thụ của các ngành kinh tế, đóng vai trò 
ngành kinh tế chính của lưu vực. Thứ ba, phân 
bố và mật độ dân cư cũng là yếu tố chìa khóa 
ảnh hưởng đển nhu cầu sử dụng nước trong các 
ngành kinh tế, đặc biệt là nhu cầu nước sinh 
hoạt. Hơn nữa các hoạt động kinh tế trong lĩnh 
vực công nghiệp, thủy sản chỉ tập trung ở một 
số vùng, điều này cũng tác động lớn đến nhu 
cầu nước trong từng lĩnh vực. Thứ tư, trong 
từng lĩnh vực, nhu cầu nước trên lưu vực biến 
đổi mạnh theo cả không gian và thời gian. Sự 
biến đổi này ngoài những yếu tố nêu trên còn 
chịu tác động của điều kiện khí hậu, sự biến đổi 
của tài nguyên nước theo không gian và thời 
gian. Thứ năm hoạt động kinh tế diễn ra chủ 
yếu ở khu hạ sông Cầu, và cuối cùng dựa vào 
các kết quả đó các nhà chính sách có thể xây 
dựng phương án, giải pháp cho bài toán quản lý 
bền vững tài nguyên nước. 
Tài liệu tham khảo 
[1] FAO (Food and Agriculture Organization), 
CROPWAT, a computer program for irrigation 
planning and management. Author, Smith M. 
Irrigation and Drainage Paper 46, Rome, Italy, 
1990. 
[2] Tiêu chuẩn – định mức quy hoạch nông nghiệp 
và công nghiệp thực phẩm, Nhà Xuất bản Nông 
nghiệp, Hà Nội, 1990 
[3] Nguyễn Thanh Sơn, Quy hoạch tổng hợp tài 
nguyên nước tỉnh Quảng Trị đến 2010, Tạp chí 
Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và 
Công nghệ, T.XXII, số 2B PT(2006) 139.
Estimation of water demands for various economic sectors 
in Cau river basin 
Nguyen Y Nhu, Nguyen Thanh Son, Ngo Chi Tuan 
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
This study is conducted to calculate water demand in economic sectors for Cau river basin, support 
directly for water balance problem. The results reveal the important part of agriculture in the economic 
of this area, which occupied 70% the total of water demand of river basin, and the strong variation of 
water demand in sectors both in spatial and temporal, support in water resources sustainable 
management activities. 
Keywords: CROPWAT, water use, Cau river basin.