Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng rộng lớn trải dài xuống hạlưu sông Cửu Long quốc tế
xuyên qua 6 nước (tỉnh Yunnan - miền Nam Trung Quốc, Thái Lan, Myanma, Lào, Cambodia và Việt 
Nam), và khoảng 75% của 3,9 triệu ha Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Công Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (Việt Nam). Phần Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Việt Nam được ưu đải với 
đất phì nhiêu và vùng sản xuất lúa nổi tiếng được gọi là “Vựa Lúa châu Á”. 
Tuy nhiên phần đất phì nhiêu chỉgiới hạn trong khoảng 1,1 triệu ha của lưu vực hai sông lớn, sông Hậu, 
sông Tiền và các nhánh của chúng. Phần còn lại khoảng 2,8 ha cấu tạo bởi các loại đất như đất phèn 
(1,08 triệu ha), đát chua nặng (510.000 ha), và đất nhiễm mặn do ảnh hưởng của thủy triều (810.000 ha), 
không loại nào trong các loại đất này thích hợp cho nông sản. 
Trên đất không thích hợp đó, cưdân đã cải tạo đất bằng nhiều cách đểtrồng hoa màu. Nông dân đã 
bán Tràm trồng tựnhiên đểsống vì sản xuất nông nghiệp trên đất chua thật thấp và lúa chỉcó thểtrồng 
một vụtrong năm. 
Từlâu rừng Tràm được bán nhưhàng hóa. Tràm thường được dùng làm cừ, nước hoa, củi đốt và 
nhiều sản phẩm khác, nên Tràm là nguồn thu nhập có giá trịcho nông dân trên đát chua. Trên hết, từ
lâu cây Tràm với đặc tính chịu nước và khó mục được dùng làm cừtrong công nghệdân dụng ởphía 
Nam Việt Nam. 
Công nghệdân dụng và nhu cầu xây dựng gia tăng khi kinh tếViệt Nam bắt đầu tăng trưởng có nhịp độ
từnăm 1990, điều này thúc đẩy nhu cầu Tràm làm cừmóng. Do đó, nhiều nông dân sống trên vùng 
đất chua đã chủ động trồng rừng Tràm làm cừmóng. Chính phủkhuyến khich nông dân trồng Tràm vì 
năng suất lúa thấp. Chính phủrất kỳvọng trồng rừng Tràm trên đất chua càng nhiều càng tốt đểcải tạo 
đất sản xuất lúa thấp và có thể đưa đến sựphát triển kinh tếvùng. 
Chính phủNhật hỗtrợkỹthuật trồng Tràm thông qua Cơquan Hợp tác Quốc tếNhật Bản (“JICA”) và 
Viện Khoa học Rừng Việt Nam (“FSIV”) trong 3 năm từnăm 1997. Tuy nhiên, ngay khi nhu cầu về
công nghệdân dụng và xây dựng gia tăng nhưmong muốn của những người liên hệ, hầu hết là những 
dựán lớn dùng các phương pháp xây dựng tiên tiến. Nhu cầu cừ đúc thích hợp với phương pháp xây 
dựng tiên tiến tăng nhưng nhu cầu cừTràm không tăng nhưmong muốn. Trái lại, nhu cầu cừTràm 
giảm khi nhu cầu cừ đúc tăng. Thêm vào đó, chúng tôi nghĩràng giá thịtrường của cừTràm tiếp tục 
giảm vì trồng ngay nhiều rừng Tràm sẽlàm tăng quá mức nguồn cung cấp. 
Hầu hết nông trang ngưng trồng rừng Tràm từ4 đến 5 năm qua và rừng được đốn ngay từ1 đến 2 năm. 
Điều này không ngoài dự đoán bao lâu tình trạng trên vẫn còn, ngày càng nhiều nông dân đối mặt với 
những khó khăn trong cuộc sống do thịtrường trì trệcủa cừTràm. 
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm phát động thời kỳtăng trưởng phấn khởi và cải thiện đời sống 
của dân chúng cũng đã cảnh báo hiện trạng và đã xem vấn đềnghiêm túc. Chúng tôi cần nhanh chóng 
tác động chống những vấn đềngắn hạn nhưviễn cảnh tăng sốnông dân hóa nghèo từ1 đến 2 năm nữa. 
Thêm vào đó, vềlâu dài, điều mà chính quyền địa phương phải gánh nặng với vùng đất chua rộng lớn là 
chăm lo “cải thiện sản xuất nông nghiệp bằng cách sửdụng hữu hiệu vùng đất chua” đểphát triển kinh 
tế địa phương. 
Trong khi đó, khi chúng tôi xem xét ởphạm vi toàn cầu, kinh tếTrung Quốc đã tăng trưởng nhanh và từ
khi Nghị định thưKyoto có hiệu lực, vai trò của rừng trởnên có ý nghĩa trong cam kết ngăn ngừa sự 
6
nóng lên của trái đất. Ở động thái này, “rừng trồng” đã và đang cần hơn rừng tựnhiên trong thịtrường 
sản phẩm bằng gỗhay vật liệu làm giấy và bột giấy. Khi chúng tôi xem xét thịtrường trong nước Việt 
Nam, công nghiệp xuất khẩu đồgỗnội thất đã phát triển nhanh và giá trịxuất khẩu đạt khoảng 1 tỷUSD 
năm 2004. Tuy nhiên, hầu hết nguyên liệu làm đồgỗnội thất vẫn là gỗnhập từcác nước nhưBrazil, 
Tân Tây Lan, các nước châu Á. Do đó, nguồn cung cấp ổn định vật liệu gỗtrong nước là mấu chốt cho 
sựphát triển công nghiệp xuất khẩu đồgỗnội thất ởViêt Nam. 
Nhiều nước gồm Nhật, Úc và Anh đang nghiên cứu sựphát triển công dụng mới của rừng Tràm. Ở
Nhật, phòng thí nghiệm của Đại học Tokyo đã thành công trong hai thí nghiệm nghiên cứu “đặc điểm làm 
bột giấy của Tràm” và “đặc điểm làm đồgỗ” mặc dù còn ởmức độthí nghiệm. Tuy vậy, những kết 
quảthí nghiệm vềkỹthuật này chưa liên kết được với công dụng thương phẩm đầy đủ. 
Liên hệhoàn cảnh nêu trên, chúng tôi chú trọng những điểm sau: 
(1) Sựphát triển nhu cầu mới và công dụng của rừng Tràm, và sựcải thiện giá trịthương phẩm của 
chúng. 
(2) Sựcải thiện mức sống chuẩn của cưdân bằng cách tăng sản xuất của 500.000 ha đất chua nặng ở
Đồng bằng sông Cửu Long. 
Thừa nhận điều này, chúng tôi tiến hành khảo sát chú trọng các điểm sau: 
(1) Trong các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, chính quyền đã tích cực phát động trồng Tràm đặc 
biệt ở3 tỉnh (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp) mà thành phốHồChia Minh là thịtrường nội địa 
lớn, có diện tích đất chua nhiều hơn các tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Qua khảo sát 
thực địa, chúng tôi chú trọng 3 tỉnh này đểlàm rõ các vấn đềnhưsựphân bốdiện tích đất chua, 
trồng Tràm, mối liên hệgiữa nông dân sống ở đó và trồng Tràm, và sinh kếcủa những nông dân 
hóa nghèo bằng cách phỏng vấn trực tiếp họ đểbiết hiện trạng. 
(2) Chúng tôi kiểm tra khảnăng phát triển thịtrường mới của rừng Tràm bằng cách tiến hành nghiên 
cứu thịtrường công nghiệp làm đồgỗvà công nghiệp giấy và bột giấy ởViệt Nam. 
(3) Khai thác kiến thức và kinh nghiệm liên hệ đến rừng Tràm sưu tập bởi Trung tâm Nghiên cứu về
Khoa học Tiến hóa và Công nghệ(“CREST”) và JICA, chúng tôi kiểm tra khảnăng công nghiệp 
hóa các vùng nông thôn bằng cách dùng những sản phẩm mới làm vật liệu xây dựng nhưván ép 
và khối gỗ. 
(4) Tù kết quảnhững nghiên cứu trên, chúng tôi đềxuất dựán trồng rừng Tràm trên vùng đất chua, 
phát triển bền vững kinh tế địa phương bằng công nghiệp hóa nông trang dựa trên trồng rừng 
Tràm, cải thiện mức sống chuẩn của nông dân và vay vốn Nhật, điều này sẽbảo vệmôi trường.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 95 trang
95 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trồng rừng Tràm trên những vùng Đất chua Nặng ở Đồng bằng sông Cửu Long và Công dụng Thương phẩm mới của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SAPROF TEAM FOR JAPAN BANK FOR 
INTERNATIONAL COOPERATION (JBIC) 
Trồng rừng Tràm trên những vùng 
Đất chua Nặng ở Đồng bằng sông Cửu Long 
và Công dụng Thương phẩm mới của nó 
Nhóm Nghiên Cúu 
Dương Văn Ni, Lê Đăng Khoa, Ngô Thanh Bình: Trung tâm nghiên cứu Hòa An, Đại học Cần Thơ 
Junichi Ito, Haru Omura: Worldlink Japan 
Tháng 9, 2005 
 2
Nội dung 
Mở đầu 
Chương 1 Chính sách Phát triển Nông thôn 
1-1 Phát triển Nông thôn và Chính sách Giảm nghèo 
1-2 Chính sách Trồng rừng (Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng) 
1-3 Hoàn cảnh kinh tế -xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long 
Chương 2 Nghiên cứu ở ba Tỉnh (Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang) 
2-1 Chính sách Trồng rừng 
2-2 Hiện trạng của những Vùng Khảo sát 
2-2-1 Chọn những Làng, Quận và Tỉnh để Khảo sát 
2-2-2 Phân bố Đất chua nặng, Sử dụng Đất và Trồng rừng Tràm 
2-2-3 Sản xuất Nông trại 
2-2-4 Điều kiện Tài chính 
2-3 Hoàn cảnh kinh tế-xã hội của Cư dân trong vùng 
2-3-1 Cơ cấu công nghiệp 
2-3-2 Điều kiện sống của Nông dân 
2-4 Dự án hỗ trợ 
2-4-1 Hỗ trợ bởi các Tổ chức Quốc tế 
2-4-2 Hỗ trợ bởi NGO và những tổ chức khác 
Chương 3 Sử dụng và Thị trường của Tràm 
3-1 Hiện trạng Tập quán Sử dụng và Dự đoán Nguồn cung cấp 
3-1-1 Hiện trạng và Thị trường về Cừ 
3-1-2 Hiện trạng Trồng rừng và Dự đoán Nguồn cung cấp Tràm 
3-1-3 Các Tập quán Sử dụng khác và Nét chính của rừng Tràm 
3-2 Sự cần thiết Phát triển Thị trường mới 
3-2-1 Công nghiệp Bột giấy và Giấy 
3-2-2 Công nghiệp Xuất khẩu Ván Việt Nam 
3-2-3 Công nghiệp Xuất khẩu đồ gỗ Nội thất 
3-3 Đặc điểm Khoa học và Phát triển Sử dụng rừng Tràm 
3-3-1 Đặc điểm Vật lý và Cơ học của Tràm 
3-3-2 Tràm dùng làm gỗ Nội thất 
3-3-3 Kết quả các Thử nghiệm đặc điểm về Bột giấy và Giấy 
3-3-4 Khả năng và Vấn đề của Tràm làm Vật liệu Xây dựng 
3-3-5 Hệ thống Vận chuyển cần thiết để cung cấp cho các Thị trường mới (Gồm cả xây dựng 
đường Rừng) 
Chương 4 Cải thiện Môi trường sinh thái của Tràm 
4-1 Tràm và Sự làm Màu mỡ đất 
 3
4-2 Tính khả thi của Dự án CDM 
Chương 5 Dự án Mô hình Trồng rừng Tràm bởi Vốn Vay Nhật và các công việc liên hệ 
5-1 Cơ sở và Sự cần thiết của Dự án 
5-1-1 Vấn đề 1: Chi phí Trồng rừng và Giá Thị trường 
5-1-2 Vấn đề 2: Trồng rừng, Công nghệ Chế biến, và Hệ thống Vận chuyển cần cho các Công 
dụng mới 
5-1-3 Vấn đề 3: Nghiên cứu và Phát triển Tràm cho Thị trường mới 
5-1-4 Vấn đề 4: Cuộc sống tốt hơn cho Nông dân 
5-2 Trung tâm Sáng lập Tràm (MPC) 
5-2-1 Nhóm Nghiên cứu và Phát triển các Nhu cầu mới của Tràm 
5-2-2 Nhóm Hỗ trợ về Công nghệ và Quản lý Trồng rừng 
5-2-3 Nhóm Hỗ trợ về Hệ thống Phân phối và Công nghiệp liên hệ đến Tràm 
5-2-4 Nhóm Phát triển và Hỗ trợ về Hệ thống Canh tác mới 
5-2-5 Bổ sung về Tài chính và Tổ chức Nông dân 
5-3 Dự án Trồng rừng điểm của Trung tâm Sáng lập Tràm 
5-3-1 Chính sách cơ bản của Dự án 
5-3-2 Nét chính của Dự án 
5-3-3 Tổ chức Dự án 
5-4 Ngân sách và Thời biểu Dự án của Trung tâm Sáng lập Tràm 
5-5 Kết luận 
BỔ SUNG 
1- Oji Paper Co., Ltd “Evaluation report of Melaleuca” 
 4
Danh sách Từ Viết tắt 
BDT Born Dry Ton 
C&F Cost and Freight 
CREST Core Research for Evolutional Science and Technology 
FSIV Forest Science Institute of Viet Nam 
FSSIV Forest Science Sub-institute of South Viet Nam 
HAWA Handicraft and Wood Industry Association 
JBIC Japan Bank for International Cooperation 
JICA Japan International Cooperation Agency 
MAI Mean Annual Increment 
MARD Ministry of Agriculture and Rural Development 
MDF Medium Density Fiber Board 
MPI Ministry of Planning and Investment 
NGO Non Governmental Organization 
OXFAM Oxford Committee for Famine Relief 
PPC Provincial People’s Committee 
R&D Research and Development 
TFAP Tropical Forestry Action Program 
TOR Terms of Reference 
VBARD Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development 
VBSP Vietnam Bank for Social Policies 
VINAPACO Vietnam Paper Corporation 
WB World Bank 
Tỉ giá 
(USD) US$ 1.00 = 15.800 VND (Việt Nam Đồng)
 5
Mở đầu 
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng rộng lớn trải dài xuống hạ lưu sông Cửu Long quốc tế 
xuyên qua 6 nước (tỉnh Yunnan - miền Nam Trung Quốc, Thái Lan, Myanma, Lào, Cambodia và Việt 
Nam), và khoảng 75% của 3,9 triệu ha Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Công Hòa Xã Hội Chủ 
Nghĩa Việt Nam (Việt Nam). Phần Đồng bằng sông Cửu Long thuộc nước Việt Nam được ưu đải với 
đất phì nhiêu và vùng sản xuất lúa nổi tiếng được gọi là “Vựa Lúa châu Á”. 
Tuy nhiên phần đất phì nhiêu chỉ giới hạn trong khoảng 1,1 triệu ha của lưu vực hai sông lớn, sông Hậu, 
sông Tiền và các nhánh của chúng. Phần còn lại khoảng 2,8 ha cấu tạo bởi các loại đất như đất phèn 
(1,08 triệu ha), đát chua nặng (510.000 ha), và đất nhiễm mặn do ảnh hưởng của thủy triều (810.000 ha), 
không loại nào trong các loại đất này thích hợp cho nông sản. 
Trên đất không thích hợp đó, cư dân đã cải tạo đất bằng nhiều cách để trồng hoa màu. Nông dân đã 
bán Tràm trồng tự nhiên để sống vì sản xuất nông nghiệp trên đất chua thật thấp và lúa chỉ có thể trồng 
một vụ trong năm. 
Từ lâu rừng Tràm được bán như hàng hóa. Tràm thường được dùng làm cừ, nước hoa, củi đốt và 
nhiều sản phẩm khác, nên Tràm là nguồn thu nhập có giá trị cho nông dân trên đát chua. Trên hết, từ 
lâu cây Tràm với đặc tính chịu nước và khó mục được dùng làm cừ trong công nghệ dân dụng ở phía 
Nam Việt Nam. 
Công nghệ dân dụng và nhu cầu xây dựng gia tăng khi kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng có nhịp độ 
từ năm 1990, điều này thúc đẩy nhu cầu Tràm làm cừ móng. Do đó, nhiều nông dân sống trên vùng 
đất chua đã chủ động trồng rừng Tràm làm cừ móng. Chính phủ khuyến khich nông dân trồng Tràm vì 
năng suất lúa thấp. Chính phủ rất kỳ vọng trồng rừng Tràm trên đất chua càng nhiều càng tốt để cải tạo 
đất sản xuất lúa thấp và có thể đưa đến sự phát triển kinh tế vùng. 
Chính phủ Nhật hỗ trợ kỹ thuật trồng Tràm thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (“JICA”) và 
Viện Khoa học Rừng Việt Nam (“FSIV”) trong 3 năm từ năm 1997. Tuy nhiên, ngay khi nhu cầu về 
công nghệ dân dụng và xây dựng gia tăng như mong muốn của những người liên hệ, hầu hết là những 
dự án lớn dùng các phương pháp xây dựng tiên tiến. Nhu cầu cừ đúc thích hợp với phương pháp xây 
dựng tiên tiến tăng nhưng nhu cầu cừ Tràm không tăng như mong muốn. Trái lại, nhu cầu cừ Tràm 
giảm khi nhu cầu cừ đúc tăng. Thêm vào đó, chúng tôi nghĩ ràng giá thị trường của cừ Tràm tiếp tục 
giảm vì trồng ngay nhiều rừng Tràm sẽ làm tăng quá mức nguồn cung cấp. 
Hầu hết nông trang ngưng trồng rừng Tràm từ 4 đến 5 năm qua và rừng được đốn ngay từ 1 đến 2 năm. 
Điều này không ngoài dự đoán bao lâu tình trạng trên vẫn còn, ngày càng nhiều nông dân đối mặt với 
những khó khăn trong cuộc sống do thị trường trì trệ của cừ Tràm. 
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm phát động thời kỳ tăng trưởng phấn khởi và cải thiện đời sống 
của dân chúng cũng đã cảnh báo hiện trạng và đã xem vấn đề nghiêm túc. Chúng tôi cần nhanh chóng 
tác động chống những vấn đề ngắn hạn như viễn cảnh tăng số nông dân hóa nghèo từ 1 đến 2 năm nữa. 
Thêm vào đó, về lâu dài, điều mà chính quyền địa phương phải gánh nặng với vùng đất chua rộng lớn là 
chăm lo “cải thiện sản xuất nông nghiệp bằng cách sử dụng hữu hiệu vùng đất chua” để phát triển kinh 
tế địa phương. 
Trong khi đó, khi chúng tôi xem xét ở phạm vi toàn cầu, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh và từ 
khi Nghị định thư Kyoto có hiệu lực, vai trò của rừng trở nên có ý nghĩa trong cam kết ngăn ngừa sự 
 6
nóng lên của trái đất. Ở động thái này, “rừng trồng” đã và đang cần hơn rừng tự nhiên trong thị trường 
sản phẩm bằng gỗ hay vật liệu làm giấy và bột giấy. Khi chúng tôi xem xét thị trường trong nước Việt 
Nam, công nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất đã phát triển nhanh và giá trị xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD 
năm 2004. Tuy nhiên, hầu hết nguyên liệu làm đồ gỗ nội thất vẫn là gỗ nhập từ các nước như Brazil, 
Tân Tây Lan, các nước châu Á. Do đó, nguồn cung cấp ổn định vật liệu gỗ trong nước là mấu chốt cho 
sự phát triển công nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nội thất ở Viêt Nam. 
Nhiều nước gồm Nhật, Úc và Anh đang nghiên cứu sự phát triển công dụng mới của rừng Tràm. Ở 
Nhật, phòng thí nghiệm của Đại học Tokyo đã thành công trong hai thí nghiệm nghiên cứu “đặc điểm làm 
bột giấy của Tràm” và “đặc điểm làm đồ gỗ” mặc dù còn ở mức độ thí nghiệm. Tuy vậy, những kết 
quả thí nghiệm về kỹ thuật này chưa liên kết được với công dụng thương phẩm đầy đủ. 
Liên hệ hoàn cảnh nêu trên, chúng tôi chú trọng những điểm sau: 
(1) Sự phát triển nhu cầu mới và công dụng của rừng Tràm, và sự cải thiện giá trị thương phẩm của 
chúng. 
(2) Sự cải thiện mức sống chuẩn của cư dân bằng cách tăng sản xuất của 500.000 ha đất chua nặng ở 
Đồng bằng sông Cửu Long. 
Thừa nhận điều này, chúng tôi tiến hành khảo sát chú trọng các điểm sau: 
(1) Trong các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, chính quyền đã tích cực phát động trồng Tràm đặc 
biệt ở 3 tỉnh (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp) mà thành phố Hồ Chia Minh là thị trường nội địa 
lớn, có diện tích đất chua nhiều hơn các tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Qua khảo sát 
thực địa, chúng tôi chú trọng 3 tỉnh này để làm rõ các vấn đề như sự phân bố diện tích đất chua, 
trồng Tràm, mối liên hệ giữa nông dân sống ở đó và trồng Tràm, và sinh kế của những nông dân 
hóa nghèo bằng cách phỏng vấn trực tiếp họ để biết hiện trạng. 
(2) Chúng tôi kiểm tra khả năng phát triển thị trường mới của rừng Tràm bằng cách tiến hành nghiên 
cứu thị trường công nghiệp làm đồ gỗ và công nghiệp giấy và bột giấy ở Việt Nam. 
(3) Khai thác kiến thức và kinh nghiệm liên hệ đến rừng Tràm sưu tập bởi Trung tâm Nghiên cứu về 
Khoa học Tiến hóa và Công nghệ (“CREST”) và JICA, chúng tôi kiểm tra khả năng công nghiệp 
hóa các vùng nông thôn bằng cách dùng những sản phẩm mới làm vật liệu xây dựng như ván ép 
và khối gỗ. 
(4) Tù kết quả những nghiên cứu trên, chúng tôi đề xuất dự án trồng rừng Tràm trên vùng đất chua, 
phát triển bền vững kinh tế địa phương bằng công nghiệp hóa nông trang dựa trên trồng rừng 
Tràm, cải thiện mức sống chuẩn của nông dân và vay vốn Nhật, điều này sẽ bảo vệ môi trường. 
 7
Chương 1 
Chính sách Phát triển Nông thôn 
1-1 Phát triển Nông thôn và Chính sách Giảm nghèo 
Cho đến năm 2002, chính quyền địa phương không có chính sách nông nghiệp riêng và nhiệm vụ của 
họ là dựa trên chính sách cơ bản của chính quyền trung ương để có hiệu quả sản xuất cao nhất. 
Chính sách cơ bản của chính quyền trung ương là “sản xuất nhiều lúa để dân không lo thiếu ăn”. Do 
đó, chính quyền trung ương đặt hy vọng nhiều nhất vào chính quyền địa phương ở Đồng bằng sông 
Cửu Long, vùng vựa lúa. Đất chua được chuyển thành đất nông nghiệp bằng cách đốn Tràm hoang để 
sản xuất nhiều lúa. 
Nhưng năm 2002, chính sách nông nghiệp chỉ đạo bởi chính quyền trung ương được chuyển sang 
chính sách nông nghiệp chỉ đạo bởi chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương bắt đầu chọn 
nông sản, quyết định cách sử dụng đất và đưa ra chính sách nông nghiệp của họ. 
Tuy nhiên, chính quyền địa phương phải dựa vào chính quyền trung ương để có tài trợ cần cho việc 
thực hiện chính sách nông nghiệp của họ khi đưa ra. Không thể loại trừ nếu chính quyền địa phương 
đề xuất dựa án nông nghiệp cần nhiều tiền, chính quyền trung ương sẽ đàm phán với chính quyền địa 
phương và sẳn lòng chấp thuận dự án khác cần tài trợ ít hơn. 
1-2 Chính sách Trồng rừng1 (Dự án Quốc gia về Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng) 
(1) Hoàn cảnh Trồng rừng 
Năm 1943, diện tích rừng ở Việt Nam khoảng 42.7% nghĩa là độ 14 triệu ha đất được rừng bao phủ. 
Tuy nhiên, do phun thuốc trừ dịch hại và bom đạn trong chiến tranh liên miên, và sau chiến tranh ngày 
càng nhiều rừng được chuyển thành đồng ruộng để sản xuất lương thực, rừng ở Việt Nam bị tàn phá 
nghiêm trọng. Thêm vào đó, nông nghiệp cắt-và-đốt du canh cổ truyền và đốn rừng làm củi góp phần 
làm thoái hóa rừng nhanh. 
Sau đó, năm 1955 chính sách trồng rừng được phát động, và nhiều chính sách khác tiếp theo đó. Khởi 
đầu bằng động thái trồng cây chủ trương bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1960, dự án chính thức về trồng 
rừng được phát động trên quy mô cả nước. Nhưng trồng cây vào lúc đó được thực hiện bởi các bộ 
phận chuyên về lâm nghiệp và nông nghiệp, và do nhiều vấn đề như chương trình không được điều 
hành và quản lý chuyên môn, kỹ thuật trồng cây thấp và hột kém phẩm chất, tốc độ trồng rừng được 
xem như thành công thấp từ 40 đến 50%. 
Sau năm 1975, sự thoái hóa rừng diễn ra nhanh do sự phát triển nông nghiệp ở quy mô lớn để đối phó 
với dân số tăng cao và nhu cầu về củi đốt và gỗ gia tăng. Kèm theo sự mất to lớn diện tích rừng, nhiều 
hiểm họa tự nhiên như lũ lụt và diện tích đất chua rộng của Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, chính 
quyền Việt Nam đã tác động mạnh để giải quyết những vấn đề môi trường. Diện tích trồng rừng bình 
quân từ năm 1975 đến năm 1985 đựoc ghi nhận khoảng 40.000 đến 50.000 ha. 
Diện tích rừng giảm rõ rệt khoảng 9 triệu ha với vận tốc 27.7%. Từ khi Việt Nam bắt đầu chính sách 
1 Đoạn 1-2 cơ bản được mô tả theo ấn phẩm sau: Private Fund Nissho Iwai Resaerch Institure, Feasibility Study 
of Environmental Forestation as CDM Project, financed by Private fund, 2002. 
 8
Đổi Mới (Renovation) năm 1986, vận tốc trồng rừng thành công được xem vượt quá 70% do phát triển 
cải thiện kỹ thuật trồng cũng như thành công trong chương trình điều hành và quản lý lúc cây mới lớn 
các loài như Bạch đàn và Tràm. Năm 1995 diện tích trồng bình quân tăng khoảng 150.000 ha. Kết 
quả là khoảng 4 triệu ha rừng được trồng trong 40 năm (từ năm 1955 đến năm 1995). Tuy nhiên, chỉ 
còn khoảng 1.050.000 ha rừng trồng đặc biệt vì trước Đổi Mới tỉ lệ trồng rừng thành công thấp. 
Thêm vào đó, chính phủ Việt Nam có những vấn đề xã hội như tạo việc làm cho các bộ đội phục viên trẻ 
từ Cambodia về khi Việt Nam rút khỏi Cambodia và cải thiện đời sống các bộ lạc vùng núi. Do đó, dưới 
khẩu hiệu “Lâm nghiệp, Nông nghiệp và định cư” chính quyền đã cố giải quyết các vấn đề chính trị và 
kinh tế như “vấn đề môi trường”, “tăng thu nhập nông dân” và “phát động về lâm nghiệp và những công 
nghiệp liên hệ” bằng cách lập những dự án trồng rừng có quy mô lớn như dự án quốc gia. Đây là 
những dự án liên hệ đến rừng đề ra trong giai đoạn nêu trên. 
Năm 1989/1991: Chương trình Hành động Rừng Nhiệt đới (“TFAP”). 
Năm 1992: Ban hành Sắc lệnh Chính phủ 327/CT “Dự án sử dụng đất hoang, đồi thoái hóa, rừng, bãi 
bồi ven biển, và các dạng nước”. 
Năm 1993: TAFP được đổi tên và ban hành lại thành “Chương trình Hành động Rừng Quốc gia” và nằm 
trong Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng. 
Năm 1995: Ban hành Sắc lệnh Chính phủ 556/TTg sửa lại 327/CT, chuyển hướng chú trọng vào “bảo 
tồn tài nguyên rừng và các đồn điền cây”. 
Năm 1997: Quyết định Chính phủ về “Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” (08/1997 QH10). 
Năm 1998 Quyết định số 661/QD-TTg về “Mục tiêu, Nhiệm vụ, Chính sách và Tổ chức việc Thực hiện 
Dự án Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” được Thủ tướng ban hành. 
Năm 2003 Diện tích rừng cả nước là 11.975.000 ha (9.874.000 ha rừng tự nhiên và 2.101.000 ha rừng 
trồng). Như vậy, tỉ lệ tái phủ rừng khoảng 36%. 
(2) Chính sách Trồng rừng: Hiện trạng và Thách thức 
Chính sách trồng rừng hiện tại căn cứ trên nền pháp lý của 2 sắc lệnh: 
(1) Sắc lệnh Chính phủ 327/CT 
Sắc lệnh này được ban hành năm 1992, dưới khẩu hiệu “lâm nghiệp, nông nghiệp và định cư”. 
Sắc lệnh được ban hành trong giai đoạn lâm nghiệp cũng như nông nghiệp đuợc chuyển từ hệ thống 
nông nghiệp hợp tác sang hệ thống nông nghiệp hàng hóa. Sắc lệnh nêu rõ cư dân là lực lượng lao 
động trồng rừng có trách nhiệm trong việc trồng và bảo vệ rừng kế cận theo hợp đồng và phải trả 20% 
thu nhập cho chính quyền địa phương. Thêm vào đó, nông lâm nghiệp cho phép họ không chỉ lấy củi 
đốt mà còn thức ăn từ rừng được giao. Các đoàn thể công cộng về rừng đươc nông dân tổ chức ở 
nhiều vùng, ngay cả vài tổ chức đã thành lập và quản lý xưởng làm ván. 
Trong khi đó, nhiệm vụ của chính quyền trung ương và địa phương được ghi rõ “huấn luyện làm đồn 
điền”, “xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, trường học và cơ sở y tế” và “phân phối đất nông nghiệp, dự 
trữ tài nguyên và cho vay”. Ở những vùng thưa dân hoặc vùng sâu, dự án đuợc thực hiện bằng lực 
lượng lao động từ nhiều nhóm như các công ty lâm nghiệp nhà nước, quân đội và sinh viên. 
Theo các dự án dựa trên Sắc lệnh này, 545.000 ha rừng phòng hộ đuợc phát triển trong giai đoạn từ 
năm 1993 đến năm 1997. Sau đó, Sắc lệnh này hoàn tất nhiệm vụ và được kết hợp với Dự án Trồng 
Mới 5 Triệu ha Rừng. Các dự án trồng rừng được phát động bằng cách mời dân đến định cư ở vùng 
 9
đất chua nặng trong Đồng bằng sông Cửu Long và những dự án đó tuân theo sắc lệnh này. 
(2) Quyết định 661/QD-TTg của Thủ tướng 
Quyết định này là nền tảng của chính sách trồng rừng hiện tại ở Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam 
phê chuẩn năm 1998. 
Quyết định này đặt mục tiêu từ năm 1998 đén năm 2010 và các vấn đề đặc thù cho giai đọan 13 năm 
này như sau: 
− Quyết định nhắm vào phân phối hợp lý rừng hiện có (rừng phòng hộ, rừng chuyên dùng, rừng 
được trồng theo Chương trình 327, rừng sản xuất) cho cá nhân, gia đình và đoàn thể để bảo vệ 
rừng và nâng cao đời sống nhân dân. 
− Quyết định đặt thời hạn trồng mới 2 triệu ha rừng phòng hộ và rừng chuyên dùng và 3 triệu ha rùng 
sản xuất (trồng 2 triệu ha rừng thương phẩm và 1 triệu ha hoa màu). 
Chính phủ Việt Nam ước tính chi phí trực tiếp của 5 triệu ha do trồng rừng khoảng 31.700 tỷ VND 
(khoảng 2,1 tỷ USD) năm 1998 do ngân sách nhà nước tài trợ 40% và phần còn lại từ nhiều nguồn vay 
khác. Thực tế, tìm nguồn tài trợ rất khó và chúng tôi thấy thời hạn bị chậm trễ. 
Hơn nữa, đối với thời hạn trồng rừng, Sắc lệnh Chính phủ 556/TTg đã ban hành năm 1995. Dưới khẩu 
hiệu “Lâm nghiệp, Nông nghiệp và định cư” Sắc lệnh dự trù có 1 triệu hộ tham gia chương trình lâm 
nghiệp qua nông lâm nghiệp để tái phủ rừng đạt 40% năm 2010 như vậy có thể hỗ trợ chính thức “dự án 
mời dân đến định cư trong vùng”. “Dự án quốc gia Trồng Mới 5 Triệu ha Rừng” hiện tại phát triển và 
mở rộng Sắc lệnh này. 
1-3 Hoàn cảnh kinh tế -xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long 
Diện tích đất liền của Việt Nam khoảng 330.000 km2, bằng diện tích đất liền của Nhật Bản không kể 
Kyushu, tuy nhiên, diện tích bình nguyên rất hạn chế và hai phần ba diện tích đất là cao nguyên và núi. 
Phần lớn dân số 82 triệu (vào cuối năm 2002) tập trung ở hai bình nguyên; bình nguyên phía bắc giữa 
Đông bắng sông Hồng và bình nguyên phía nam giữa Đông bằng sông Cửu Long.. Ở hai bình nguyên 
này, dân tộc Kinh, nhóm người Việt chính chiếm 90% dân số Việt Nam và dân số còn lại khoảng 9 triệu 
người là những nhóm nhỏ gồm từ 50 đến 60 dân tộc ít người chủ yếu sinh sống trên núi hay cao nguyên 
tiếp giáp vơi các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cambodia. Khoảng 70% của 38 triệu lực 
lượng lao động dân số Việt Nam (vào cuối năm 2002) là nông dân và khoảng 26% GDP của Việt Nam 
do nông sản (năm 2002). 
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng rộng lớn do một nhóm châu thổ vùng hạ lưu sông Cửu Long 
quốc tế xuyên qua 6 nước (tỉnh Yunnan, Thái Lan, Myanma, Lào, Cambodia và Việt Nam), và khoảng 
75% diện tích hay 3.960.000 triệu ha nằm trong nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đồng 
bằng sông Cửu Long gồm 12 tỉnh và 1 thành phố thuộc trung ương với dân số 18 triệu. 92% dân số 
của Đồng bằng sông Cửu Long là dân tộc Kinh và số 8% còn lại là người gốc Hoa và Khmer. Vì Đồng 
bằng sông Cửu Long ở Việt Nam có thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất Việt Nam, nông nghiệp, 
lâm nghiệp và công nghiệp thủy sản phát triển từ lâu. Đặc biệt, trồng lúa là công nghiệp rất phổ biến và 
giúp dân Việt Nam sống nhờ lúa. 
Tuy nhiên trong số 3,96 triệu ha chỉ có 1,2 triệu ha diện tích đất phù sa màu mỡ. Phần còn lại gồm 1,6 
triệu ha đất phèn (gồm đất chua và đất mặn), 750.000 ha đất mặn và 350.000 ha các đất khác. Làm 
sao sử dụng loại đất sản xuất nông nghiệp thấp