Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời gian ngắn vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
42 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2813 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội hiện đại ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời gian ngắn vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Thực vậy, chúng ta phải khẳng định rằng: Bất cứ một xã hội nào từ cổ đại cho đến hiện đại muốn tồn tại và phát triển được đều phải dựa vào sự ổn định và các quy tắc chặt chẽ. Pháp luật luôn là điều cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội và tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại.
Trong quá trình xây dựng xã hội hiện nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp thu những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này, như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội; và pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh. Trong bài viết này, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội hiện đại ngày nay”, nhằm mục đích giải thích, giới thiệu tư tưởng Hàn Phi Tử và tìm hiểu xem tư tưởng đó ảnh hưởng như thế nào trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Do tư liệu ít, phạm vi bài viết rộng chúng tôi không đủ khả năng khái quát hoặc đưa ra nhận xét hợp lý khi kinh nghiệm thực tiễn không nhiều. Mặt khác do thời gian gấp rút đã làm cho chúng tôi cón nhiều lúng túng khi đưa ra nhận định. Vượt qua những khó khăn ban đầu, chúng tôi luôn cố gắng hoàn thành đề tài này một cách rõ ràng nhất, hy vọng có thể đem đến một cái nhìn khác về tư tưởng này.
Xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy với hơn năm trăm năm chiến tranh đau thương “người chết đầy đống, thây chất đầy thành” (Mạnh Tử). Hiện thực nóng bỏng đó là tiền đề tích cực cho ra đời hàng loạt các học thuyết tư tưởng, nhằm lý giải hiện thực và đề xuất những quan điểm, đường lối chính trị - những phương thuốc cứu đời từ loạn về trị. Và trong khoảng thời gian này, học thuyết pháp trị đã xuất hiện, với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng góp phần đưa sự nghiệp thống nhất nhà Tần đi đến thắng lợi, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
Hàn Phi Tử - Cuộc đời và tư tưởng:
Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử:
Trong lịch sử Trung Hoa, nhà Chu tồn tại lâu hơn bất kỳ một triều đại nào. Nhà Chu khởi nguồn ở sông Vị, phía tây nền văn minh Thương. Nhà Chu coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh vì vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ. Thấy rằng đất đai mình chinh phục được quá rộng lớn để một người có thể cai trị, các vua nhà Chu đã chia đất đai thành những vùng và chỉ định một người nào đó để cai trị vùng đó dưới danh nghĩa của mình (chư hầu), lựa chọn một người thân trong họ, một người có thể tin tưởng trong bè cánh, hay vị thủ lĩnh một bộ lạc đã cùng họ chống lại nhà Thương. Giai đoạn Đông Chu bắt đầu từ khoảng năm thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên tới 221 trước Công Nguyên (TCN) (Có nhiều tài liệu ghi chép giai đoạn Đông Chu từ năm 722 TCN tới 256 TCN). Giai đoạn này có thể chia thành hai thời kỳ:
Thời Xuân Thu (- 700 - 403) từ đời Chu Bình Vương tới gần cuối đời Chu Uy Liệt Vương.
Thời Chiến Quốc (- 403 - 221) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương tới khi Tần diệt Tề và thống nhất Trung Quốc.
Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Về kinh tế, canh nông, phương pháp canh tác rất tiến bộ. Thời Ân người ta dùng lưỡi cày bằng gỗ, thời Tây Chu đã có lưỡi cày bằng đồng đỏ; cuối thời Xuân Thu ở Ngô và Việt, người ta đã tìm ra sắt. Sắt lúc đó gọi là "ác kim" (vàng, bạc, đồng là mỹ kim) và chỉ dùng chế tạo những đồ dùng tầm thường như lưỡi cày, lưỡi cuốc. Do sự gia tăng của số dân nên sự khai hoang đất đai trong giai đoạn này được tập trung. Chế độ tỉnh điền không hợp thời nữa. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tới thời Xuân Thu, công nghệ phát triển hơn, các đồ đồng bằng đồng đỏ, các đồ cẩn, khảm đã đạt được kỹ thuật cao, đồ bạc và bằng ngọc đã xuất hiện.
Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà vua và triều đình cai trị. Vị vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình. Thay vào đó, sự trung thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút.
Thời kỳ chiến quốc bắt đầu từ năm 403 TCN, không đánh dấu một biến cố gì quan trọng đủ để mở đầu một thời đại, chỉ là năm ba đại phu nước Tấn: Hàn Kiều, Triệu Tích, Ngụy Tư được vua Chu phong hầu (do đó mà sau Tấn tách ra thành ba nước Hàn, Triệu, Ngụy), còn xã hội, lịch sử Trung Hoa vẫn biến chuyển liên tục, không bị gián đoạn. Tuy nhiên có điều này hiển nhiên là càng về sau xã hội càng loạn, biến cố càng dồn dập, và xét chung thì thời Chiến Quốc quả có nhiều điểm khác thời Xuân Thu.
Về kinh tế, thời Chiến Quốc, sắt đã trở nên thông dụng, được ưu chuộng trong việc chế tạo binh khí cũng như lưỡi cày. Canh nông nhờ đó cũng phát triển. Nước chư hầu nào cũng muốn phú cường để thôn tính các nước bên cạnh, mà muốn phú cường thì trước hết phải khuếch trương canh nông, nghĩa là phải vừa cải tiến phương pháp canh tác vừa khuyến khích khai phá đất đai mới, vừa thay đổi cách đánh thuế. Thời chiến quốc chế độ tỉnh điền được bãi bỏ, đồng thời cũng bỏ luôn phép đánh thuế thời đó gọi là trợ (giúp): tám gia đình làm giúp một khoảng ruộng công ở giữa cho chủ điền (tức là cho chính phủ, cho quý tộc), mà thay bằng thứ thuế thường bằng một phần mười huê lợi, huê lợi có khi tính từng năm một, có khi lấy số trung bình của nhiều năm. Lối sau này bất lợi cho nông dân: năm được mùa, lúa thóc dư nhiều, chính phủ có thể thu nhiều mà lại thu ít, dân tiêu pha hết không chịu để dành; tới năm mất mùa, huê lợi chỉ đủ trả phí tổn canh tác thì chính phủ lại bắt nộp đủ số, dân đói phải vay nặng lãi của chủ điền, của con buôn, có kẻ trả nợ suốt đời không hết. Gần thời Chiến Quốc, các ông vua chư hầu cần tiền mua khí giới, nuôi binh lính, đánh thuế rất nặng, có nơi bằng 50% huê lợi của dân, dân tình cực điêu đứng. Tuy nhiên chính sách đóng thuế vào huê lợi cũng có lợi cho nông dân về mặt khác: họ tương đối được tự do, độc lập hơn đối với chủ điền, không bị "cột" vào công điền nữa. Về công nghệ, thời Chiến Quốc phát triển thêm đồ sơn, đồ thuỷ tinh; kỹ thuật đồ gốm, kỹ thuật dệt và nhuộm (có khi người ta nhuộm tới bảy màu), rất tiến bộ và người ta đã tìm được những hợp kim để chế tạo những tấm gương soi mặt rất tốt. Nhờ đó, thương mại dần phát triểnvà phát triển hơn cả công nghệ.
Về chính trị, chế độ phong kiến suy vi. Trong Chiến Quốc từ khi dời đô sang phía đông, nhà Chu suy nhược lần lần, đất đai thì phải chia cắt để phong cho các chư hầu công khanh, nên mỗi ngày mỗi thu hẹp lại, chỉ còn trông cậy vào sự cống hiến của các chư hầu mà chư hầu như nước Lỗ, trong 242 năm chỉ triều cống có ba lần: không những vậy, vì cái danh nghĩa thiên tử, đôi khi còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh. Thời Chiến Quốc, giai cấp quý tộc cũ lần lần tan rã, không nắm quyền hành nữa, và một giới hữu sản mới lên thay: họ là những người khai phá những đất mới, những thương nhân làm giàu rồi mua đất và thành những tân địa chủ, lối sống cũng như bọn quý tộc cũ, nhưng tư tưởng tiến bộ hơn, và một số có tài nhảy ra làm chính trị. Thời Xuân Thu đã có một số ít người trong giai cấp đó chiếm được những địa vị cao: như Bách Lý Hề, Quản Trọng, Ninh Thích..., nhưng thời Chiến Quốc mới thực là thời của họ tung hoành. Họ là những kẻ sỹ áo vải giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế hay võ bị, làm quân sư hoặc tướng quốc cho các vua chúa. Họ là Tô Tần, Trương Nghi, Cam Mậu, Phạm Tuy, Ngô Khởi, Bạch Khởi, Lã Bất Vi, Lý Tư..
Nhà Chu suy nhưng một số chư hầu mỗi ngày một mạnh vì chính trị tốt, kinh tế phát đạt như Tề, hoặc vì sát nhập những nước nhỏ xung quanh để củng cố quyền lực, khai thác được những đất mới như Sở, Tần. Số chư hầu trước kia còn ngàn rưỡi, tới thời Đông Chu (Xuân Thu) chỉ còn lại trên một trăm, qua thời Chiến Quốc, giảm xuống nữa, còn dưới một chục: Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Lỗ…; trong đó thất hung gồm Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên , mạnh nhất là Tần, Sở, Tề vì đất đai đã rộng (nhất là Sở) mà tài nguyên lại nhiều. Gần cuối thời Chiến Quốc họ thành những quốc gia độc lập, không phục tùng nhà Chu nữa, không chịu xếp mình vào bậc công hay hầu, chư hầu phục tùng nhà Chu, mà tự xưng vương (tức tự coi mình ngang với nhà Chu). Điều này đã mở đầu cho giai đoạn chiến tranh liên miên giữa các nước, nhằm tranh giành đất đai, xưng Đế (vua của các vua).
Càng về cuối thời Chiến Quốc, chiến tranh càng tàn khốc, tình hình dân chúng thật điêu đứng. Hơn nửa dân phải đi lính, kẻ ở nhà phải nộp thuế có khi tới ba phần tư hoa lợi. Những năm được mùa, dân cũng không được hưởng vì triều đình thu hết lúa để nuôi lính; những năm mất mùa thì kẻ già, người bệnh chết hàng loạt trên đường, trong ruộng. Chiến tranh trong hai năm cuối cùng thời Chiến Quốc liên miên bất tuyệt, có khi nào chấm dứt đâu, chỉ tạm dừng ở nước này hay nước khác để chuẩn bị cho một chiến tranh khác.
Thấy xã hội từ trên xuống dưới đầy trộm cướp như vậy, bọn quý tộc sa sút bất bình, muốn trở lại thời Xuân Thu, ổn định hơn, nhưng bất lực; hạng thư sinh thì chỉ thở dài, giảng nhân nghĩa; còn hạng võ dũng thì chỉ biết dùng thanh gươm để rửa nhục cho kẻ bị oan ức, bênh vực kẻ bị áp bức, thành bọn thích khách mà người ta gọi là hiệp sỹ. Chúng ta không thấy làm lạ rằng thời Chiến Quốc có nhiều hiệp sỹ hơn các thời khác. Dù chiến tranh chấm dứt thì họa cũng kéo dài hàng chục năm, "vì tổn phí vào chiến tranh, mười năm thu lúa cũng chưa đủ bù”.
Kết thúc giai đoạn Chiến Quốc, Trung Hoa cổ đại được quy về một mối, Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước và lập ra nhà Tần. Ông đã lập nên đế chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, đánh dấu một cột mốc quan trọng. Và chiến thắng của Tần Thủy Hoàng không thể không nói đến học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, chính học thuyết này đã góp phần to lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng tạo ra một đế chế hùng mạnh. 1.1.2. Cuộc đời Hàn Phi Tử:
Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích cái học "hình danh." - Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách. Trong bảy nước thời Chiến Quốc, tổ quốc của Hàn Phi “vốn là nước nhỏ, phải chống sự công kích ở bốn phía, chúa nhục, tôi khổ” (Tồn Hàn, Hàn Phi Tử). Làng giềng lại có cường Tần hung bạo nên tình hình đã khổ càng thêm khổ; theo Hợp Tung thì bị Tần đánh, theo Liên Hoành lại bị các nước đánh. Hàn Phi muốn phò vua Hàn nhưng không được trọng dụng, nhiều lần dâng kế sách nhưng không được sử dụng. Ông nhận thấy vua Hàn “không sửa đổi làm rõ pháp chế” sẽ tạo nên tình trạng các nhà nho dùng văn làm rối loạn pháp luật, còn hiệp sĩ dùng võ phạm vào điều cấm. Sau này Vua Tần thấy nhìn thấy sự tài hoa của Hàn Phi nên nhân lúc Vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ qua Tần đã mời Hàn phi ở lại Tần để giúp Thủy Hoàng thực hiện việc thống nhất thiên ha. Nhưng Hàn Phi chỉ giúp vua Tần được ít lâu. Vì vua Tần chưa tin dùng ông lắm, hoặc do Lý Tư ganh ghét không cho phép ông tiếp cận vua Tần thường, hoặc do cả hai nguyên nhân. Lợi dụng việc Hàn Phi là công tử nước Hàn, Lý Tư đã lập âm mưu hãm hại và cuối cùng vua Tần đã ban Hàn Phi thuốc độc để tử tự.
Những tác phẩm của Hàn Phi:
Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa, viết Cô Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Làm, Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết), tất cả hơn mười vạn chữ. Ông cũng tổng hợp tư tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết bộ sách Hàn Phi Tứ.
1.1.3. Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi :
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết “Nhân trị”, "Đức trị", "Vô vi trị", "Kiêm ái"... Song tất cả đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu. Trong qúa trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn phi phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho Gia. Ông cho rằng cách cai trị dựa trên tinh thần nhân đức của nhà cầm quyền là trái với thực tế và nếu áp dụng quan điểm đó sẽ làm loạn đất nước. Đối với ông nền tảng của việc cai trị đất nước chính là sự chế ước bản thân, một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng là người bình thường như bao người khác, cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua nước đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật, có pháp luật được thi hành một cách phổ biến và đúng đắn thì xã hội mới được ổn định, là một tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh cho dân chúng được yên bình hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng « Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu ». Vì những suy nghĩ như vậy ông đã đề xuất tư tưởng « trị nước bằng pháp luật » với chủ trương « luật pháp không phân biệt sang hèn ». Ông hết sức coi trọng pháp luật và cố gắng xây dựng một lý luận hoàn chỉnh, trong đó lấy « Pháp » làm hạt nhân, và kết hợp chặt chẽ với Pháp, Thế, Thuật.
1.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử:
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia:
Học thuyết Pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Người có công khởi xướng cho phái Pháp gia là phải kể đến Quản Trọng (?-645 TCN), sống vào thời Xuân Thu, ông là tướng quốc của nước Tề. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 86 thiên (còn lại), với những điểm chủ yếu:
Lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành.
Mục đích trị quốc là làm cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng đến sự phú quốc vì "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục".
Để cho quốc phú, binh cường ông có chủ trương “ngụ binh ư nông” tức đem việc binh vào nghề nông.
Chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải.
5- Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước
Sang nửa đầu thời kì Chiến Quốc, tiếp nối Quản Trọng là Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người gốc ở đất Kinh, nước Trịnh. Chuyên học về hình danh, ông được vua nước Hàn dùng làm tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Ông cho rằng "Thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua
Cũng trong thời kì này, khác hẳn các tư tưởng khác của Pháp gia, Thận Đáo (370-290 TCN) thuần túy là một tư tưởng gia. Ông người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao”.
Một đại biểu khác của Pháp gia là Thương Ưởng (390-338 TCN). Ông người nước Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "Pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, và từ trên xuống dưới ai cũng phải thi hành, không phân biệt giai cấp; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”.
Và cuối thời Chiến quốc, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của pháp gia đã kể trên là Hàn Phi (280-233 TCN). Ông người nước Hàn, chủ trương đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho, "Kiêm ái" của Mặc, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước, mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Vì thế, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử:
Ba cơ sở của thuyết Pháp trị của Hàn Phi:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biên hóa mà hành động phù hợp.
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Ông cho rằng không có thứ pháp luật nào là luôn luôn đúng trong mọi thời đại mà nó luôn có sự thay đổi.
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: do bản tính con người là ác và trong xã hội người tốt thì ít, với nhiều kẻ xấu như vậy để xây dựng được một xã hội bình yên không nên trong chờ vào số ít mong họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông ngăn chặn không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị)
Nội dung cơ bản trong của thuyết Pháp trị:
Nếu như trong phép trị nước Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì học thuyết Pháp trị của Hàn Phi lại coi trọng cả ba yếu tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạn; còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Đầu tiên ta sẽ tìm hiểu về Pháp, Pháp được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều đư