Trước đây, chỉ có các nhà đầu tư nhỏ tham gia vào thị trường chứng khoán mới được 6 năm
tuổi của Việt Nam. Còn hiện nay, các công ty tài chính phố Wall đã tiến đến TP.HCM, trung
tâm kinh tế của VN. Cùng với Citigroup, JPMorgan cũng đang nhảy vào thị trường tài chính
của Việt Nam, điều này chứng tỏ Việt Nam đang có những bước tiến vượt bậc để hoà nhập
vào nền kinh tế thế giới.
Theo tờ báo The Wall Street Journal (Mỹ), chứng khoán Việt Nam đang là câu chuyện nóng
nhất trên các thị trường mới nổi lên hiện nay. Tổng số vốn giao dịch tăng từ 1 tỷ lên 15 tỷ
USD, một sự tăng trưởng quá nóng, đồng thời thị trường Việt Nam cũng ngầm cho thấy dấu
hiệu của một thứ bong bóng cổ điển, Giá cổ phiếu đã lên gần với mức giá của các cổ phiếu
Internet hồi những năm 90 thế kỷ trước. Rất nhiều lí do đưa ra để giải thích cho sự phát triển
mãnh liệt này, trong đó phần lớn cho rằng một trong những nguyên nhân chính là do tâm lí
bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước. Và lâu nay vẫn có quan niệm
sai lầm rằng chỉ ở Việt Nam mới có tâm lí bầy đàn. Sự thật tâm lí đám đông đã xuất hiện ở
hầu hết các thị trường mới nổi, ngay cả ở các thị trường phát triển, vẫn có những giai đoạn
tồn tại tâm lí đám đông. Lịch sử đã chứng kiến nhiều vụ nổ bong bong và khủng hoảng như
khủng hoảng hoa tulip – Hà Lan, đại suy thoái thế giới, khủng hoảng 1987
Vì vậy, vấn đề được đặc ra là những động thái phức tạp của nhà đầu tư được giải thích như
thế nào và thị trường Việt Nam còn tồn tại những ưu - nhược điểm gì cần hoàn thiện và phát
triển, những giải pháp nào cần phải thực hiện để khắc phục tình trạng trong thời gian qua, và
những giải pháp nào cần hướng đến trong tương lai. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý thuyết
cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích và phòng tránh những bất thường trên thị
trường chứng khoán để đóng góp vào công cuộc phát triển nền kinh tế nói chung và TTCK
nói riêng.
64 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng lý thuy ết hành vi để quản trị rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO Trang 1
1.1. LÝ THUYẾT HÀNH VI: 1
1.1.1. Định nghĩa: 1
1.1.2. Phương pháp luận: 1
1.1.2.1. Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi: 2
- Hành vi không hợp lí:
- Hành vi không hợp lí mang tính hệ thống:
- Giới hạn khả năng kinh doanh chên lệch giá trên thị trường tài chính:
1.1.2.2. Các ứng dụng của lý thuyết hành vi: 6
1.2. LÝ THUYẾT HÀNH VI VÀ LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ: 7
1.3. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO: 9
1.3.1. Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán: 10
1.3.1.1. Rủi ro hệ thống: 10
1.3.1.2. Rủi ro không hệ thống: 10
1.3.2. Xác định mức bù rủi ro: 11
1.3.3. Quy trình quản trị rủi ro: 11
1.4 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO: 11
Kết luận chương 1 12
*****
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ
CÁC CÂU CHUYỆN CỦA THẾ GIỚI 13
2.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM: 13
2.1.1. Tổng kết thị trường chứng khoán năm 2006: 13
2.1.2. Tổng kết thị trường chứng khoán năm 2007: 15
2.1.3. SCIC - Giải pháp kích cầu của chính phủ năm 2008: 17
2.1.3.1. Những lợi ích từ hoạt động của SCIC: 17
2.1.3.2. Những tác hại từ hoạt động của SCIC: 20
2.1.4. Chỉ số VN-Index năm 2006, 2007 và 3 tháng đầu năm 2008: 23
2.2. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ TÂM LÝ BẦY ĐÀN: 23
2.3. NHÌN LẠI CÁC CUỘC SỤP ĐỔ CỦA NỀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI: 25
2.3.1. Cơn sốt hoa tulip thế kỉ 17: 26
2.3.2. Câu chuyện bong bóng và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán 1987: 27
2.4. BONG BÓNG TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM: 28
Kết luận chương 2 30
*****
CHƯƠNG 3 ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT HÀNH VI ĐỂ QUẢN TRỊ RỦI RO TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 31
3.1. GIẢI PHÁP CHUNG CHO THỊ TRƯỜNG TRONG DÀI HẠN: 31
3.1.1. Chứng khoán phái sinh - giải pháp cho tương lai: 31
3.1.1.1. Áp dụng các sản phẩm phái sinh vào thị trường chứng khoán có giải quyết
được tình trạng xấu do “tâm lí bầy đàn” gây nên không? 31
3.1.1.2. Sử dụng công cụ phái sinh để quản trị rủi ro: 31
3.1.1.3. Thời điểm nào thích hợp để áp dụng chứng khoán phái sinh: 32
● Viễn cảnh của TTCK sẽ ra sao nếu áp dụng chứng khoán phái sinh vào thời
điểm hiện nay:
● Thời điểm nào là phù hợp:
3.1.1.4. Xây dựng những vấn đề cơ bản để đảm bảo việc triển khai các công cụ tài
chính phái sinh được bền vững: 34
3.1.2. Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán: 36
3.1.3. Các giải pháp vi mô: 37
3.1.3.1. Cần đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường: 37
3.1.3.2. Hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường: 37
- Xây dựng một phần mềm để theo dõi các tài khoản giao dịch :
- Ổn định thuế đánh trên nhà đầu tư chứng khoán:
- Giảm biên độ dao động giá:
3.1.3.3. Tăng chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán: 40
3.1.3.4. Nâng cao kiến thức, năng lực đầu tư chứng khoán cho công chúng và nhà đầu
tư: 40
3.1.3.5.Hoàn thiện hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cho TTCK: 41
3.1.4. Các giải pháp vĩ mô : 42
3.1.4.1. Duy trì một nền kinh tế ổn định: 42
3.1.4.2. Ổn định chính sách tiền tệ quốc gia: 43
3.1.4.3. Duy trì một chính sách tài chính phù hợp: 44
3.1.4.4. Phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và chính sách tài chính: 44
3.2. GIẢI PHÁP CHO NHÀ ĐẦU TƯ: 44
3.2.1 Kết quả khảo sát thực trạng về nhận thức, kiến thức và hành vi đầu tư của nhà đầu
tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam: 44
3.2.2. Chiến lược cho nhà đầu tư: 45
3.2.2.1. Nâng cao kiến thức cá nhân: 45
3.2.2.2. Xây dựng danh mục đầu tư: 46
3.2.2.3. Thực hiện chiến lược: 47
3.3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT CẤP BÁCH CHO THỊ TRƯỜNG DỰA TRÊN 2 LOẠI
RỦI RO CHÍNH: 47
LỜI KẾT 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1 - Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý hành vi:
PHỤ LỤC 2 - Bảng 1:Các trường phái tâm lý và ứng dụng trong tài chính hành vi
PHỤ LỤC 3 – Các sự kiện nổi bật trên TTCK trong năm qua theo bình chọn của
Vnexpress.
PHỤ LỤC 4 - Bảng 2: Phân tích báo cáo tài chính FPT so với các đại gia công nghệ của
thế giới như Microsoft, Google, Yahoo, Oracle, và bình quân ngành.
PHỤ LỤC 5 – Bong bóng là gì, sự hình thành bong bóng và khái niệm về sự sụp đổ.
PHỤ LỤC 6 - Chứng khoán phái sinh.
PHỤ LỤC 7 - Bảng Câu Hỏi khảo sát.
PHỤ LỤC 8 - Giá 15 chứng khoán trong 40 tháng từ 1/2004 – 12/2007.
PHỤ LỤC 9 - Cổ tức.
PHỤ LỤC 10 - Dữ liệu TSSL 15 chứng khoán.
PHỤ LỤC 11 - Ma trận phương sai - hiệp phương sai.
PHỤ LỤC 12 - Chạy solver với hằng số c để tìm ra tỷ trọng đầu tư vào danh mục.
CHƯƠNG 1 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
1.1. LÝ THUYẾT HÀNH VI:
1.1.1. Định nghĩa:
- Tài chính hành vi học là lĩnh vực liên quan gần gũi, ứng dụng những nghiên cứu khoa
học về nhận thức & xu hướng cảm xúc trên con người nhằm hiểu rõ hơn về các quyết
định kinh tế, và làm cách nào mà con người gây ảnh hưởng lên thị trường giá cả, lợi
nhuận & sự cấp phát các nguồn tài nguyên. Phạm vi chủ yếu được đề cập bao gồm sự
hợp lý hoặc thiếu hụt của các nhân tố kinh tế. Các mô hình hành vi đặc trưng được nhận
biết qua tích hợp tâm lý học & học thuyết kinh tế tân cổ điển. Tài chính theo hành vi đã
trở thành cơ sở lý thuyết cho các phân tích kỹ thuật. Các phân tích hành vi phần lớn đề
cập đến ảnh hưởng của các quyết định thị trường, cũng như những lựa chọn chung, khởi
điểm của các quyết định thuộc về kinh tế học & các xu hướng tương tự nhau.
- Tài chính học hành vi là một phân ngành kinh tế học nghiên cứu xem những hành vi
(hành động có nhận thức) của các chủ thể kinh tế (người tiêu dùng, người phân phối, bán
hàng hay người sản xuất) có thể ảnh hưởng đến việc ra các quyết định kinh tế cũng như
giá cả thị trường ra sao. Môn khoa học này lấy lý luận về dự tính duy lý của chủ thể kinh
tế làm trung tâm. Phương pháp nghiên cứu của nó dựa trên các mô hình kết hợp giữa tâm
lý học với các mô hình về dự tính duy lý của kinh tế học tân cổ điển.
( Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý hành vi Phụ lục 1).
1.1.2. Phương pháp luận:
- Máy chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) được dùng để xác định những vùng thuộc bán
cầu đại não hoạt động tích cực trong chuỗi các bước hình thành quyết định kinh tế.
- Nhà tâm lý học Samuel McClure, đại học Princeton, cùng cộng sự, thông qua nghiên
cứu hình ảnh não bộ, đã báo cáo “Khi các chủ thể chọn lợi ích trước mắt thì xuất hiện
hoạt động tại các vùng não khác với những vùng não khi chọn lợi ích tương lai”. Daniel
Kahneman, giáo sư tâm lý học, người đoạt giải Nobel kinh tế 2002, nói: “Với góc độ
công nghệ, chúng ta có thể hy vọng chỉ trong vòng mười năm hoặc hai mươi năm nữa
thôi sẽ có những bước phát triển khổng lồ. Khối lượng hiểu biết về bộ não sẽ tăng nhanh
kinh khủng. Điều này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lý học chính trị - thị trường. Và
khối lượng hiểu biết đó sẽ tạo ra được một cơ sở dữ liệu dùng chung, một thứ thông tin
không ai có thể làm ngơ”.
- Ví dụ, trên thị trường “tăng giá liên tục trong thời gian dài” (bull market) những ý nghĩ
“mong muốn giả” hoặc các báo cáo dự đoán của nhà phân tích về xu hướng tăng giá liên
tục trong thời gian dài đối với các loại chứng khoán sẽ tác động trực tiếp đến tâm lý của
nhóm nhà đầu tư, dẫn theo tác động tăng giá.
- Vậy tài chính học hành vi có thật sự đảm nhiệm tốt vai trò dự đoán giá lên xuống của thị
trường chứng khoán không? và có giải thích được các hành vi đầu tư mạo hiểm hay
không ?
- Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể đúng nếu trên thị
trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba đều tồn tại, lý thuyết tài chính
hành vi dự báo rằng việc định giá sai không những là tồn tại, mà còn là rất đáng kể (lớn
hoặc đến mức nghiêm trọng) và kéo dài. Ba điều kiện đó bao gồm:
+ Tồn tại hành vi không hợp lý.
+ Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống.
+ Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính.
1.1.2.1. Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi:
- Hành vi không hợp lý:
Các nhà đầu tư sẽ có hành vi không hợp lý khi họ không phân tích và xử lý “đúng”
những thông tin mà họ có (và thị trường cung cấp), từ đó dẫn đến những kỳ vọng lệch lạc
về tương lai của cổ phiếu mà họ đầu tư vào. Ngoài ra, trong một số trường hợp, dựa trên
kinh nghiệm hay nhận thức sẵn có, họ cũng mắc phải những “lệch lạc trong nhận thức”
(cognitive biases). Những nghiên cứu về các hành vi không hợp lý tiêu biểu trong thị
trường tài chính là kết hợp giữa tâm lý học, mà chủ yếu là trường phái tâm lý nhận thức
(cognitive psychology) với trường phái tâm lý hành vi (behavioral psychology). Có một
số dạng lệch lạc trong nhận thức tiêu biểu trong thị trường chứng khoán như sau:
* Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán (Heuristics). Các kinh nghiệm, hay
quy tắc học được thường giúp chúng ta ra quyết định nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều
(chính các trường dạy về kinh tế về mặt nào đó cũng chỉ ra một số các quy tắc quyết định
cho một số trường hợp kia mà). Nhưng trong một số trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào
các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm, đặc biệt là khi các điều kiện bên ngoài thay đổi.
Và đặc biệt là người ta thường đề cao hiệu quả của những quy tắc đơn giản, gần gũi và dễ
nhớ, kiểu hiệu ứng mà Tversky và Kahneman (1979) gọi là hiệu ứng quy tắc có sẵn
(availability heuristic). Shiller (2000) đã đưa ra một ví dụ là khi nhiều người đều dùng
internet thì họ dễ dàng nghĩ đến những điển hình thành công và những đổi mới hấp dẫn
đang diễn ra trên mạng, thế là họ nghĩ ngành kinh doanh này sẽ thành công, rốt cuộc đã
dẫn đến vụ bùng nổ giá cổ phiếu các Công ty công nghệ cao, dot.com vào cuối những
năm 1990. Một ví dụ khác gây bất ngờ là của Benartzi và Thaler (2001) khi họ ghi nhận
qua thí nghiệm cho một số người N lựa chọn cho việc đầu tư tiền tiết kiệm, nhiều người
nhanh chóng áp dụng quy tắc 1/N (đa dạng hoá đầu tư kiểu đơn giản nhất, đầu tư 1/N số
tiền vào mỗi loại hình đầu tư), trong khi nếu phân tích kỹ, họ sẽ đầu tư theo những quy
tắc khác (như chia phần nào vào cổ phiếu, phần nào vào chứng khoán thu nhập cố định,
và tuỳ vào điều kiện thị trường, v.v…).
* Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness), thường được diễn tả một
cách đơn giản là xu hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài hạn, mà thường
đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn. Ví dụ khi giá cổ phiếu bắt
đầu tăng liên tục 3, 4 năm hoặc dài hơi hơn (như trường hợp của Mỹ và Tây Âu từ 1982
đến 2000, hay Trung Quốc trong 10 năm trở lại đây, và có lẽ cũng có cả Việt Nam chúng
ta nữa), trong đầu nhiều người bắt đầu suy nghĩ rằng lợi nhuận cao từ cổ phiếu là việc
“bình thường”. Nếu trở lại giai đoạn 2001, 2002 của thị trường Việt Nam khi giá chứng
khoán đi xuống, chắc hẳn những qi kinh doanh cổ phiếu niêm yết (không tính cổ phiếu
OTC) trong giai đoạn này sẽ thấy sự khác biệt, một mức lợi nhuận 30-50% thời điểm ấy
là không bình thường, song trong 1, 2 năm gần đây là quá “bình thường”.
Tversky và Kahneman (1974) đưa ra một định nghĩa hàn lâm hơn cho tình huống này
là người ta đánh giá xác suất xảy ra của những sự kiện trong tương lai dựa vào mức độ
“tương tự” với một tình huống điển hình nào đó. Điểm quan trọng là người ta thường chỉ
quan tâm đến một tình huống điển hình của một giai đoạn ngắn thay vì quan tâm đến một
mẫu hình điển hình trong một giai đoạn dài (điều này gọi là luật số quan sát nhỏ, “law of
small numbers”).
Chẳng hạn cho rằng điều kiện hiện nay của nền kinh tế Việt Nam “tương đồng” với
giai đoạn này trong năm 2006 nhiều hơn là giống với năm 2001 thì đương nhiên sẽ cho
rằng xác suất giá cổ phiếu còn lên nữa là cao hơn xác xuất giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng
nếu nhìn cho một giai đoạn 2000-2006, người ta sẽ thấy thị trường lúc lên, lúc xuống,
không phải lên mãi không ngừng, thì sẽ có đánh giá khác về xác suất tăng, giảm.
* Bảo thủ (conservatism). Khi điều kiện thay đổi (thông tin mới về triển vọng nền
kinh tế chẳng hạn), người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay đổi đó, và gắn
nhận định (anchoring) của mình với tình hình chung trong một giai đoạn dài hơi trước đó.
Tức là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho rằng kinh tế kém đi chỉ là tạm thời, dài hạn
vẫn là đi lên, mà không nhận thấy có thể tin đó phát đi tín hiệu một chu kỳ suy thoái
nhiều năm đã bắt đầu.
Hiệu ứng này (gắn với kinh nghiệm dài hạn) là ngược lại với hiệu ứng lệch lạc do
tình huống điển hình (đặt nặng vào các tình huống điển hình ngắn hạn). Phối hợp 2 hiệu
ứng này có thể giúp giải thích hiện tượng phản ứng chậm (undrrreaction) trên thị trường
chứng khoán. Ví dụ, khi ban đầu tin tức công bố của một Công ty cho thấy lợi nhuận
giảm, người ta vẫn tin rằng đây chỉ là giảm tạm thời, và phản ứng chậm với thông tin này,
nên giá cổ phiếu Công ty có tin xấu vẫn giảm chậm. Đến khi liên tục vài quý sau, tình
hình vẫn xấu, thì người ta đã “phát hiện” ra một tình huống điển hình mới: Công ty này
quý trước cũng kinh doanh kém, quý này cũng kinh doanh kém, vậy nên bán tống cổ
phiếu Công ty này đi tránh lỗ. Thế là mọi người đổ xô đi bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn
đến phản ứng thái quá.
* Quá tự tin (overconfidence) Có nhiều nghiên cứu tâm lý học trên thị trường tài
chính cho thấy các nhà đầu tư tỏ ra quá tự tin (một số bằng chứng thí nghiệm đã được
trình bày trong các tác phẩm “Irrational Exuberance” (2000) của Shiller, một số khác
trình bày trong “A survey of behavioral finane” (2003) của Barberis và Thaler). Bằng
chứng gần đây nhất là việc nhiều nhà đầu tư ít đa dạng hoá danh mục của mình và đầu tư
nhiều vào những Công ty mà mình quen thuộc (một số nghiên cứu tranh cãi rằng có thể
vì họ có thông tin nội bộ về những Công ty đó, nhưng những nghiên cứu gần đây trong
lĩnh vực quản trị Công ty đã bác bỏ luận cứ này). Như vậy, một cách giải thích khả dĩ là
các nhà đầu tư ít đa dạng hoá này tự tin quá mức vào tầm hiểu biết của mình đối với
Công ty. Barber và Odean (2001) còn công bố một kết quả thú vị là những nhà kinh
doanh chứng khoán là nam thì quá tự tin nhiều hơn nữ, và nam càng thực hiện nhiều giao
dịch thì… kết quả càng tệ hại hơn nữ.
* Định nghĩa hẹp (narow framing) cô lập một khái niệm hay phân tích một vấn đề
trong một khuôn khổ hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho khuôn
khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục. Phương pháp này có thể hữu ích trong một số
trường hợp giới hạn về nguồn lực, hay không đủ thời gian phân tích nhiều. Tuy nhiên, nó
cũng có thể đưa đến sai lầm.
* Tính toán bất hợp lý (mental accounting). Đây là một dạng của định nghĩa hẹp.
Chúng ta có xu hướng tách riêng các quyết định mà đúng ra phải được kết hợp lại với
nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng của chúng ta (metal account) và tối đa
hoá lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra các quyết định nhìn tưởng là
hợp lý, mà thật ra là sai lầm. Ví dụ, có người có xu hướng tách biệt ra 2 ngân sách gia
đình, một dành cho mua thức ăn trong gia đình, một dành cho đi ăn nhà hàng cuối tuần.
Và khi chi tiêu mua đồ ăn, người này thường không mua hải sản cao cấp vì nghĩ rằng nó
mắc và chỉ ăn thịt bình thường, nhưng khi vào ăn nhà hàng, người này lại gọi tôm hùm,
thay vì ăn một bữa thịt bình thường (đương nhiên rẻ hơn tôm hùm). Nếu thay vì như vậy,
người này đi mua tôm hùm cho bữa ăn tại nhà, và chỉ ăn thịt bình thường trong nhà hàng,
anh ta có thể tiết kiệm tiền. Vấn đề nằm ở chỗ anh ta đã tách biệt ra 2 tài khoản riêng cho
thức ăn tại nhà và đi ăn cuối tuần !
Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp, chúng ta có thể giải thích nhiều
hiện tượng như lựa chọn nghịch với sở thích (preference reversals), sợ thua lỗ (loss
aversion), và hiệu ứng phân bổ tài khoản khá phổ biến, thể hiện cơ bản ở chỗ người ta sẵn
sàng thực hiện ngay những lệnh mang lại lời nhỏ, nhưng trì hoãn không thực hiện lệnh
dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ. Ví dụ, khi mua cổ phiếu giá 30.000, sau đó giá
giảm xuống 22.000, người ta vẫn không bán cổ phiếu (thậm chí còn mua tiếp) và chờ đến
khi giá lên trên 30.000 một chút mới bán ngay kiếm lời. Giá có giảm tiếp người ta cũng
cứ giữ cổ phiếu đó tiếp. Vì họ đã tách biệt giữa “tài khoản lời” và “tài khoản lỗ” trong
tâm trí của mình, cho nên họ cố tối đa hoá tài khoản lời, và tối thiểu hoá tài khoản lỗ, nên
giá lên một chút thì bán, giá xuống thì cứ giữ, xem như nó chưa bị chuyển qua tài khoản
lỗ. Hiệu ứng phân bổ tài khoản này cũng có thể được lý giải bằng hiệu ứng tự lừa dỗi (sợ
rằng nếu bán mà bị lỗ thì sẽ cảm thấy bản thân ra quyết định đầu tư kém), hay hiệu ứng
tiếc nuối (lỡ bán rồi mà giá lên thì sao). Hiệu ứng phân bổ tài khoản lý giải một phần vì
sao trong thị trường tăng giá thì khối lượng giao dịch tăng cao hơn khi thị trường giảm
giá tại Mỹ và Nhật.
Trên đây chỉ là một số hiệu ứng tâm lý đã được đề cập và đưa vào một số mô hình tài
chính hành vi. Còn nhiều hiệu ứng tâm lý khác nhau có thể tác động đến các quyết định
lệch lạc của nhà đầu tư, có thể được tổng hợp trong bảng 1.( Phụ lục 2)
- Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống:
Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng của giao dịch
của nhà đầu tư này lên giá cổ phiếu trên thị trường là không đáng kể (cho dù là một tổ
chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ đơn độc một mình). Chỉ khi hành
vi không hợp lý là mang tính hệ thống (nghĩa là một nhóm nhiều nhà đầu tư cùng có một
hành vi không hợp lý như nhau) thì khi ấy việc định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu
kéo dài. Lý thuyết tài chính hành vi cho rằng tính lệch lạc (bất hợp lý) trong hành vi là
khá phổ biến đối với nhiều nhà đầu tư, và do đó, nó tạo thành một dạng như chúng ta
thường gọi là “hiệu ứng bầy đàn”, khiến cho giá một số cổ phiếu không phản ánh giá trị
“thực” (hay “hợp lý”) của chúng. Như vậy, “hiệu ứng bầy đàn” là không tốt cho thị
trường trong trường hợp chúng ta xem hiệu ứng bầy đàn là tất cả đều hành động theo một
mẫu hình hành vi lệch lạc, không hợp lý, thấy ai làm sao thì làm vậy.
- Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính:
Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ hội để
kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh chênh lệch giá sẽ
điều chỉnh giá trên thị trường về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại định giá sai, mà lại không
thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để tận dụng các khoản lợi nhuận này thì như thế
nào? Và tại sao lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá khi có định giá sai ?
Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi là có 2
dạng định giá sai:
+ Một dạng là thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh chênh lệch giá được.
+ Một dạng là không thường xảy ra, kéo dài và không thể kinh doanh chênh lệch
giá được (nói một cách khác, khó mà xác định được khi nào mức định giá sai đã đạt tới
giới hạn trên hay dưới và điều chỉnh lại).
Nếu tham gia “chỉnh sửa” kiểu định giá sai dạng 2 thì rất dễ rơi vào trạng thái “tiền
mất, tật mang”, mà điển hình là bài học nổi tiếng của LTCM kinh doanh chênh lệch giá
của Royal Duch và Shell bị thua lỗ, nhưng ngay sau khi họ thua lỗ không bao lâu thì giá
2 cổ phiếu này điều chỉnh lại đúng như dự đoán của họ ! Đây là ví dụ cho thấy thực tế
định giá sai có thể kéo dài rất lâu, và kiểu nhà đầu tư hợp lý như LTCM (được quản lý
bởi những người đoạt giải Nobel và rất thành công trong 4 năm trước thương vụ này)
tham gia sửa chữa sai lầm này thì sẽ thất bại.
Barberis và Thales (2003) chỉ ra rằng kinh doanh chênh lệch giá không thể xảy ra vì
có những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và có thể kinh doanh
chênh lệch giá 2 tài sản đó, nhưng thực tế thì không như vậy, do đó tạo ra rủi ro tăng
thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (vốn được xem là rủi ro thấp đến mức phi
rủi ro). Ngoài ra, chi phí thực hiện các chiến lược hưởng chênh lệch giá và sự tồn tại của
các giao dịch của những nhà