Đề tài Ứng dụng tin học xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ điạ chính phục vụ công tác quản lý đất đai phường Trung Tâm – thị xã Nghĩa lộ - Tỉnh Yên Bái

Ai trong chúng ta cũng có thể nhận thức được rằng đất đai là một nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Đối với mỗi quốc gia đất đai luôn gắn liền với ranh giới lãnh thổ, với lịch sử đấu tranh hình thành, xây dựng và phát triển của quốc gia đó. Vai trò to lớn của đất đai đã được khẳng định rõ ràng: là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đầu vào quan trọng của tất cả các ngành sản xuất, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng Rõ ràng đất đai rất quan trọng

doc77 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2030 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng tin học xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ điạ chính phục vụ công tác quản lý đất đai phường Trung Tâm – thị xã Nghĩa lộ - Tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Ai trong chúng ta cũng có thể nhận thức được rằng đất đai là một nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Đối với mỗi quốc gia đất đai luôn gắn liền với ranh giới lãnh thổ, với lịch sử đấu tranh hình thành, xây dựng và phát triển của quốc gia đó. Vai trò to lớn của đất đai đã được khẳng định rõ ràng: là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đầu vào quan trọng của tất cả các ngành sản xuất, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng…Rõ ràng đất đai rất quan trọng. Việc phân bố sử dụng đất đai như thế nào cho hợp lý, hiệu quả, bền vững là một vấn đề đặt ra cho mọi thời đại. Ngày nay, khi mà đất đai đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các ngành. Nhu cầu đất đai tăng cao do nhu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội cao dẫn đến tình trạng đất đai không được sử dụng hay sử dụng nhưng không đúng mục đích và dẫn đến hiệu quả sử dụng đất còn thấp kém. Việc sử dụng đất đai hiện nay ở nước ta còn rất nhiều bất cập và hạn chế. Trước năm 1993 do chưa có những quy định cụ thể cho người sử dụng đất thì những giao dịch, mua bán đất đai và những tài sản trên đất vẫn chủ yếu diễn ra theo những ‘‘ kênh ngầm’’. Từ khi có luật đất đai 1999 quy định 5 quyền của người sử dụng đất, đó là: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất và đến nay theo quy định Luật đất đai 2003 về 9 quyền của người sử dụng đất bao gồm: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho, góp vốn, bảo lãnh quyền sử dụng đất thì đất đai mới thực sự được phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên do công tác quản lý hiện nay chưa theo kịp với những thay đổi của nhu cầu phát triển và thực tế tình hình sử dụng đất nên chưa tạo ra sự thống nhất giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Điều này dẫn đến tình trạng đất đai sử dụng một cách bừa bãi, không theo quy hoạch và đặc biệt là tạo ra tình trạng phân bố đất đai cùng những quyền lợi trên đất không đều giữa nông thôn và thành thị. Tại điều 6 Luật đất đai 2003 quy định: Đất đai là thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước là chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do vậy mà công tác quản lý Nhà nước về đất đai phải được đặt ra và thực hiện một cách nghiêm túc từ Trung ương đến địa phương. Điều này sẽ giúp Nhà nước và người sử dụng đất đều thực hiện được đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Vấn đề quản lý cần phải có biện pháp nhanh gọn, chính xác, hiệu quả đáp ứng nhu cầu phát triển hiện nay. Do đó mà việc đưa tin học vào công tác quản lý ngành địa chính được xem là một biện pháp lâu dài, cần được thực thi một cách nhanh chóng ở tất cả các địa phương. Ngoài khả năng khắc phục những hạn chế của công tác quản lý hiện nay thì việc tin học hoá còn tạo ra một hệ thống thông tin chuẩn, đồng bộ, thống nhất và có khả năng chuyển đổi thông tin dễ dàng giữa tất cả các địa phương. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội ngày nay. Chính vì những lý do trên đây mà dưới sự hướng dẫn của thầy giáo và sự tiếp nhận của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái, tôi xin tiến hành nghiên cứu đề tài sau: “Ứng dụng tin học xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ điạ chính phục vụ công tác quản lý đất đai phường Trung Tâm – thị xã Nghĩa lộ - tỉnh Yên Bái’’ 1.2. Mục đích, yêu cầu 1.2.1 Mục đích - Tìm hiểu những quy định mới nhất về công tác thành lập, quản lý Hồ sơ địa chính. - Tìm hiểu tính thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của công tác hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính tại phường Trung Tâm. - Liên kết được các loại dữ liệu nhằm xây dựng hệ thống thông tin đất đai đầy đủ, hoàn chỉnh, tích hợp với phần mềm quản lý hồ sơ địa chính. - Đưa ra được bản đồ địa chính, các loại sổ sách, mẫu đơn từ trong hồ sơ địa chính cho phường Trung Tâm. 1.2.1. Yêu cầu - Hiểu rõ về các quy định của Nhà nước hiện nay đối với hệ thống Hồ sơ địa chính thông qua các văn bản pháp luật đã ban hành. - Xử lý hệ thống cơ sở dữ liệu về hồ sơ địa chính thông qua một số phần mềm tin học. - Đưa ra được cơ sở dữ liệu Hồ sơ địa chính cho phường Trung Tâm. PHẦN 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Công tác quản lý đất đai qua các thời kỳ 2.1.1. Thời kỳ trước năm 1945 Đây là thời kỳ lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta. Đây là lần đầu tiên chúng ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập tự do cho tổ quốc và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thành công lớn nhất của chúng ta ngoài đánh đuổi thực dân Pháp dể giải phóng đất nước còn là đánh đổ giai cấp phong kiến mang lại ruộng đất cho dân cầy. Quan hệ đất đai được đánh dấu từ thời Lý và thời Trần với ba hình thức sở hữu đất đai: sở hữu nhà vua, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân. Ngay sau khi cướp ngôi nhà Trần, năm 1397 Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách cải cách ruộng đất với nội dung quan trọng nhất là đưa ra chế độ hạn điền (mỗi người không được vượt quá 10 mẫu ruộng) nhằm thu hồi đất đai cho Nhà nước. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua sau 10 năm kháng chiến chống Minh thắng lợi và bắt đầu thời kỳ Hậu Lê. Với chính sách phân phối lại ruộng đất công bỏ hoang cho binh lính và nông dân được thực hiện ngay sau khi phong đất cho các công thần. Thời kỳ Gia Long kéo dài suất 31 năm (1805-1836) được đánh dấu từ khi Nguyễn ánh lên ngôi vua. Trong xuất thời kỳ này nhà Nguyễn đã hoàn thành bộ địa bạ của 18000 xã từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau bao gồm tất cả 10044 tập. Sổ địa bạ đã được lập cho từng xã, phân biệt rõ đất công, đất tư và điền thổ trong đó ghi rõ đất đó của ai, diện tích tứ cận, đẳng hạng dùng để tính thuế. Sổ địa bạ được lập cho mỗi xã và gồm 3 bản theo quy định: tiểu tu, 5 năm đại tu một lần Thời kỳ Minh Mạng (vua thứ hai triều Nguyễn): Chế độ hạn điền vẫn tiếp tục được thực hiện và cũng được lập đến từng làng xã và có nhiều tiến bộ hơn thời kỳ Gia Long. Nó được thành lập trên cơ sở đạc điền (đo vẽ) và có sự chứng kiến của nhiều chức sắc trong làng và điền chủ. 2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc Thực dân Pháp ngay sau khi đặt chân đến Việt Nam đã lập tức điều chỉnh mối quan hệ đất đai theo pháp luật của pháp, công nhận quyền sở hữu tư nhân một cách tuyệt đối về đất đai. Bản đồ địa chính được lập theo toạ độ cùng với sổ địa bạ nhằm mục đích thu thuế nông nghiệp, riêng thuế thổ canh thì rất cao còn thuế thổ cư thì thấp không đáng kể. Chế độ quản lý đất đai được thiết lập phục vụ cho mục đích chia rẽ để cai trị của thực dân Pháp bao gồm các chế độ: + Chế độ điền thổ tại Nam Kỳ: Chúng lập bản đồ giải thửa đo đạc chính xác, lập sổ điền thổ trong đó mỗi trang thực hiện trên một lô đất, ghi rõ diện tích, vị trí giáp ranh (tứ cận), biến động tăng giảm của lô đất, ghi tên chủ sử dụng, các nội dung liên quan đến chủ sử dụng đất. + Chế độ quản lý tại Trung kỳ: Thực hiện đo đạc bản đồ giải thửa, lập sổ địa bạ giống sổ mục kê, sổ điền chủ tương đối giống sổ địa chính + Tại Bắc Kỳ: Do điều kiện đất đai manh mún, phức tạp nên thực dân Pháp thực hiện theo hai cách: đo đạc chính xác và lập các loại lược đồ đo đạc và lập sổ sách tạm thời quản lý. Những nơi được đo đạc các loại bản đồ đo đạc, chúng lập sổ địa chính theo từng thửa đất (thứ tự, tên loại đất, tên chủ sử dụng đất và số liệu khai báo chuyển dịch đất đai. Những nơi đo bản đồ giải thửa chi tiết: lập bản đồ giải thửa, sổ địa chính, sổ điền chủ, sổ mục lục các thửa đất, mục lục các điền chủ, sổ khai báo để ghi biến động. Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, mặc dù tình hình chính trị bị đảo lộn và diễn biến phức tạp song ngành địa chính từ Trung Ương đến địa phương vẫn được củng cố, duy trì và có nhiều bước phát triển mới. Ngày 02/02/1947 các ty địa chính được sát nhập vào Bộ Canh Nông. Ngày 18/06/1942 Nha Địa Chính hợp nhất với ngành công sản trực thu thành Nha Công Sản trực thu địa chính thành Nha Địa chính thuộc Bộ Tài Chính. 2.1.3 Thời kỳ năm 1954-1975 Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam Việt Nam dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn, việc quản lý đất đai chủ yếu được thực hiện theo chế độ quân chủ điền địa được thực hiện dưới thời Pháp thuộc trước đây. Đây là thời kỳ tiếp quản hệ thống hồ sơ địa chính của thực dân Pháp đã thành lập, bao gồm: bản đồ giải thửa, sổ điền thổ trong đó ghi rõ diện tích, nơi toạ lạc, giáp ranh, biến động tăng giảm, tên chủ sử dụng, số mục lục, số hiệu thửa đất. Mặc dù thời Ngô Đình Diệm có tiến hành ‘‘cải cách điện địa’’ và thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu có thực hiện chính sách ‘‘người cày có ruộng’’, nhưng về bản chất thì tất cả các chính sách này đều nhằm mục đích chính trị, nhằm xoá bỏ mọi thành quả mà cách mạng ta đã đạt được trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Toàn bộ hồ sơ được lưu ở hai cấp: Ty điền địa, xã sở tại. Chủ sở hữu mỗi lô đất được cấp một bằng khoán điền thổ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ngày 03/07/1958 Chính phủ ban hành chỉ thị 254/TTg cho tái lập hệ thống địa chính của Bộ Tài Chính. Năm 1959 phong trào hợp tác hoá nông nghiệp diễn ra một cách phổ biến. Hiến pháp đầu tiên ra đời năm 1960 đã quy định rõ ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Ngày 09/12/1960 Chính Phủ ban hành Nghị định 70 CP thành lập Vụ Quản Lý Ruộng Đất trực thuộc Bộ Nông nghiệp. Ngày 31/05/1962 chính quyền Việt Nam cộng hoà đã ban hành sắc lệnh 124 về công tác kiến điền và quân thủ điền địa thuộc những xã chưa thuộc chế độ bảo thủ điền địa theo sắc lệnh năm 1925. 2.1.4. Công tác quản lý đất đai thời kỳ 1975 đến nay Trước tháng 8/1945 Nhà nước phong kiến do thực dân Pháp đô hộ. Sau cách mạng tháng 8 /1945 (sau cải cách ruộng đất) tịch thu ruộng đất địa chủ, nông dân, ruộng đất tập trung vào hợp tác xã do hợp tác xã quản. Chủ nhiệm hợp tác xã có quyền giao đất, cho thuê đất, đo bằng hình thức thủ công do bản đồ không còn nhiều, bản đồ chủ yếu là bản đồ giải thửa, hệ thống sổ mục kê phục vụ cho thống kê Nhà nước. Đến năm 1980, Hiến pháp 1980 ra đời quy định một hình thức sở hữu đất đai: ‘‘Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý’’. Điều này chứng tỏ Nhà nước đã bắt đầu quan tâm đến công tác quản lý đất đai. Ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính phủ có quyết định 201/CP về công tác quản lý đất đai trong cả nước 10/11/1980 Chỉ thị 299 TTg hướng dẫn thực hiện quyết định 201 CP về công tác đo đạc, phân hạng, đăng ký ruộng đất. Tổng cục Quản lý ruộng đất đưa ra Quyết định 56 quy định về hệ thống hồ sơ tài liệu phục vụ cho đăng ký thống kê ruộng đất ngày 5/11/1981: phải có biên bản xác định ranh giới hành chính, biên bản và kết quả đo đạc chi tiết, kết quả đo đạc ngoài đất và trong nhà, đơn đăng ký sử dụng đất, bản kê khai ruộng đất tập thể, bản tổng hợp các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp, sổ đăng ký ruộng đất cho tập thể và cá nhân, sổ mục kê, biểu tổng hợp diện tích, mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, biên bản thống kê đăng ký. Cuối năm 1987 đầu năm 1988, luật đất đai của nước ta được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 08/01/1988 với rất nhiều các văn bản dưới luật ra đời nhằm củng cố công tác quản lý đất đai theo một đường lối nhất định. Tổng cục quản lý ruộng đất tiếp tục ra Quyết định 201 về đăng ký thống kê ngày 24/7/1989 về việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và Thông tư 302 về đăng ký thống kê ngày 28/10/1989 hướng dẫn thực hiện Quyết định 201 của Tổng cục quản lý ruộng đất. Năm 1992, hiến pháp tiếp tục khẳng định: ‘‘Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý’’. Luật đất đai sửa đổi bổ sung 1993 được ban hành bao gồm 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai (điều 13). Tổng cục điạ chính ban hành QĐ 499 ngày 27/7/1985 quy định mẫu hồ sơ địa chính thống nhất trong cả nước. Ngày 22/02/1994 Chính phủ ra Nghị định 12/CP về thành lập Tổng Cục Địa Chính trên cơ sở sát nhập Tổng Cục Quản Lý Ruộng Đất với Cục Đo Đạc và Bản Đồ Nhà nước nhằm quản lý thống nhất đất đai trong cả nước. Năm 1998, Tổng Cục Địa Chính đã ban hành Thông tư 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC của Tổng cục địa chính ban hành ngày 30/11/2001 quy định rõ những thủ tục đăng ky có tính chất bắt buộc phải thực hiện một cách thống nhất, nhằm đẩy mạnh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các địa phương. Luật đất đai 2003 ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 với rất nhiều quy định mới trong đó đưa ra 13 nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Chính phủ đã ban hành Nghị định 181/2004 ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật đất đai 2003. Bộ Tài Nguyên và Môi Trường đã ban hành Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 về Ban hành quy định về GCNQSDĐ. Bộ Tài Nguyên và Môi Trường đã ban hành Thông tư 28/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 về hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. 2.2. Khái quát về hồ sơ địa chính Hồ sơ địa chính tài liệu bao gồm các loại hồ sơ sổ sách trong đó chứa đựng đầy đủ các thông tin liên quan đến thửa đất cũng như người sử dụng đất và được thiết lập trên cơ sở đo đạc, lập bản đồ địa chính, đăng ký đất đai ban đầu, đăng ký biến động đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đây là tài liệu có căn cứ pháp lý nhằm giúp Nhà nước quản lý đất đai một cách cụ thể và có hiệu quả cao trên cơ sở lập, cập nhật, chỉnh lý, và lưu giữ ở tất cả các cấp từ Trung Ương đến các cấp ở cơ sở. Do đây là một tài liệu quan trọng chứa đựng nhiều thông tin cần thiết phục vụ cho công tác quản lý đất đai nên hồ sơ địa chính ngày càng có nhiều thay đổi về hình thức cũng như nội dung nhằm phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Để đưa ra các quy định cụ thể cho các nội dung có trong hồ sơ địa chính, Bộ Tài Nguyên và môi trường đã dựa trên các căn cứ như sau: Căn cứ Luật Đất đai ngày 26/11/2003. Căn cứ Nghị định số 181/2004/ NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai. Căn cứ Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường. Dựa vào các căn cứ như trên Bộ Tài Nguyên và Môi Trường đã ra thông tư 29D/2004/TT - BTNMT về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Cụ thể bao gồm: 2.2.1 Nội dung hồ sơ địa chính * Hồ sơ địa chính bao gồm bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất, sổ theo dõi biến động đất đai. * Bản đồ địa chính là bản đồ về các thửa đất, được lập để mô tả các yếu tố tự nhiên của thửa đất và các yếu tố địa hình có liên quan đến sử dụng đất. Nội dung bản đồ địa chính gồm các thông tin về thửa đất gồm: - Vị trí, kích thước, hình thể, số thứ tự, diện tích, mục đích sử dụng đất. - Hệ thống thuỷ văn gồm sông, ngòi, kênh, rạch, suối. - Hệ thống thuỷ lợi gồm hệ thống dẫn nước, đê, đập, cống. - Đường giao thông gồm đường bộ, đường sắt, cầu. - Khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới thửa khép kín. - Mốc giới và đường địa giới hành chính các cấp, mốc giới và chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc giới về ranh giới hành lang bảo vệ an toàn công trình. - Điểm toạ độ địa chính, địa danh và các ghi chú thuyết minh. * Sổ địa chính là sổ ghi về người sử dụng đất, các thửa đất của người đó đang sử dụng và tình trạng sử dụng đất của người đó. Sổ địa chính được thành lập để quản lý việc sử dụng đất và để tra cứu thông tin đất đai có liên quan đến từng người sử dụng đất. Nội dung của sổ địa chính bao gồm: - Người sử dụng đất gồm tên, địa chỉ và thông tin về chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu, quyết định thành lập tổ chức, giấy đăng ký kinh doanh của tổ chức kinh tế, giấy phép đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. - Các thửa đất mà người sử dụng đất sử dụng gồm mã thửa, diện tích, hình thức sử dụng đất (sử dụng chung hay sử dụng riêng), mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng, nguồn gốc sử dụng, số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. - Ghi chú về thửa đất và quyền sử dụng đất gồm giá đất, tài sản gắn liền với đất (nhà ở, công trình kiến trúc khác, cây lâu năm, rừng cây), nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện, tình trạng đo đạc, lập bản đồ địa chính, những hạn chế về quyền sử dụng đất (thuộc khu vực phải thu hồi theo quy hoạch sử dụng đất nhưng chưa có quyết định thu hồi, thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình, thuộc địa bàn có quy định hạn chế diện tích xây dựng). - Những biến động về sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất gồm những thay đổi về thửa đất, về người sử dụng đất, về chế độ sử dụng đất, về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. * Sổ mục kê đất đai là sổ ghi về thửa đất, về đối tượng chiếm đất nhưng không có ranh giới khép kín trên tờ bản đồ và các thông tin có liên quan đến quá trình sử dụng đất. Sổ mục kê đất đai được lập để quản lý thửa đất, tra cứu thông tin về thửa đất và phục vụ thống kê, kiểm kê đất đai. Nội dung sổ mục kê đất đai bao gồm: - Thửa đất gồm số thứ tự thửa, tên người sử dụng đất hoặc người được giao đất để quản lý, diện tích, mục đích sử dụng đất và những ghi chú về thửa đất (khi thửa đất thay đổi, giao để quản lý, chưa giao, chưa cho thuê, đất công ích,..) - Đối tượng có chiếm đất nhưng không tạo thành thửa đất hoặc có hành lang bảo vệ an toàn như đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi; công trình theo tuyến; sông, ngòi, kênh, rạch, suối và các đối tượng thuỷ văn khác theo tuyến; khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới khép kín trên bản đồ gồm tên đối tượng, diện tích trên tờ bản đồ; trường hợp đối tượng không có tên thì phải đặt tên hoặc ghi ký hiệu trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính. * Sổ theo dõi biến động đất đai là sổ để ghi những biến động về sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất.Nội dung của sổ theo dõi biến động đất đai gồm tên và địa chỉ của người đăng ký biến động, thời điểm đăng ký biến động, số thứ tự thửa đất có biến động, nội dung biến động về sử dụng đất trong quá trình sử dụng, thay đổi về thửa đất, về người sử dụng đất, về chế độ sử dụng đất, về quyền của người sử dụng đất, về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 2.2.2. Nguyên tắc lập hồ sơ địa chính: - Hồ sơ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. - Việc lập và chỉnh lý hồ sơ địa chính thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục hành chính quy định tại chương XI của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của chính phủ về thi hành Luật đất đai. - Hồ sơ địa chính phải đảm bảo tính thống nhất giữa bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ theo dõi biến động đất đai, thống nhất giữa bản gốc và các bản sao, thống nhất giữa hồ sơ địa chính với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất. 2.2.3 Một số nội dung cụ thể của hồ sơ địa chính 2.2.3.1 Bản đồ địa chính a. Nội dung bản đồ địa chính - Bản đồ địa chính là thành phần của hồ sơ địa chính phục vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. - Ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng của thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính được xác định theo hiện trạng sử dụng đất. Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng đất mà thay đổi thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài Nguyên và Môi Trường phải chỉnh sữa bản đồ địa chính thống nhất với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Trường hợp lập bản đồ điạ chính sau khi đã tổ chức đăng ký quyền sử dụng đất thì ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng, của thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính được xác định như sau: + Trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì xác định theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Trường hợp được nhà nước giao đất, cho thuê đất mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì xác định theo quyết định giao đất, cho thuê đất. + Trường hợp không thuộc hai trường hợp trên thì xác định theo hiện trạng sử dụng đất. b. Nguyên tắc lập bản đồ địa chính - Bản đồ địa chính được lập trước khi tổ chức việc đăng ký quyền sử dụng đất và hoàn thành sau khi được Sở Tài Nguyên và Môi Trường xác nhận. Bộ Tài Nguyên và Môi Trường chỉ đạo việc khảo sát, đo đạc, lập và quản lý bản đồ địa chính trong phạm vi cả nước. - Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện việc k