Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 
310 
_______ 
Ước lượng sai số mô hình trong bộ lọc Kalman bằng 
phương pháp lực nhiễu động 
Kiều Quốc Chánh* 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Trong bài báo này, một phương pháp xác định sai số mô hình trong bộ lọc 
đồng hóa Kalman sẽ được trình bày. Kiểm định phương pháp này trên mô hình Lorenz 40 biến chỉ 
ra rằng phương pháp mới có nhiều ưu điểm so với phương pháp tăng cấp nhân đơn thuần. Mở rộng 
của phương pháp này cho các hệ với bậc tự do lớn như trong các mô hình dự báo thời tiết nghiệp 
vụ cũng sẽ được thảo luận. 
Từ khóa: Đồng hóa số liệu, lọc Kalman, mô hình Lorenz, mô hình dự báo số
1. Mở đầu∗
Đồng hoá số liệu về bản chất là một quá 
trình trong đó số liệu quan trắc và một trường 
phỏng đoán nền được kết hợp với nhau một 
cách thống kê để thu được điều kiện ban đầu tốí 
ưu cho mô hình số (trong bài này thuật ngữ ‘mô 
hình’ ngụ ý một phương trình biểu diễn dưới 
dạng sai phân dùng để giải một bài toán phương 
trình đạo hàm riêng một cách xấp xỉ với điều 
kiện biên và điều kiện ban đầu cho trước). Đặc 
trưng thống kê của bài toán đồng hóa số liệu 
chính là cốt lõi của tất các thuật toán đồng hoá 
hiện tại. Nếu mô hình và các dữ liệu quan sát là 
hoàn hảo, bài toán đồng hóa số liệu khi đó sẽ 
đơn thuần chỉ là một bài toán nội suy (hay 
ngoại suy) tối ưu nhiều chiều. Nếu quan trắc là 
tuyệt đối nhưng mô hình ẩn chứa các sai số nội 
tại, bài toán đồng hóa sẽ không còn là một bài 
toán nội suy tối ưu đơn thuần vì khi đó điều 
kiện ban đầu chính xác sẽ không còn luôn được 
trông đợi (thậm chí ngay cả khi phép nội suy là 
chính xác) do các dữ liệu quan sát có thể tiềm 
ẩn các thành phần không cân bằng mà mô hình 
không cho phép tích phân. Ví dụ các sóng trọng 
trường có thể được kích thích và lan truyền rất 
nhanh, dẫn đến sự phá huỷ tính ổn định của mô 
hình. Nếu cả mô hình và quan trắc là không 
hoàn hảo thì rõ ràng sự bất định này phải được 
tính đến trong mô hình một cách thích hợp. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung chủ 
yếu vào sai số nội tại của mô hình, gọi tắt là sai 
số mô hình. Vấn đề sai số của dữ liệu quan trắc 
thiên về bài toán kiểm định chất lương quan trắc 
nghiệp vụ và sẽ không được xem xét ở đây. 
∗ ĐT: 84-4-38584943. 
 E-mail: 
[email protected] 
Trong thực tế, ước lượng sai số mô hình là 
một vấn đề rất khó của bài toán đồng hoá số liệu 
do nguồn lớn nhất của sai số mô hình lại chính là 
các quá trình vật lí không được hiểu biết đầy đủ. 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 311
Ví dụ như các lực rối, lực ma sát hay tham số 
hoá không đầy đủ các quá trình vật l ý vi mô của 
mô hình. Thêm vào đó, các xấp xỉ số học của mô 
hình cũng có thể là một nguồn sai số đáng kể của 
do các thuật toán sai phân hữu hạn có thể chứa 
các nghiệm phi vật lí hoặc trở nên mất ổn định 
khi vi phạm các điều kiện tích phân. 
Các kĩ thuật xử lí sai số mô hình trong các 
thuật toán đồng hóa số liệu hiện đại bao gồm kĩ 
thuật tăng cấp nhân [1], kĩ thuật tăng cấp cộng 
tính [2], hay phương pháp hiệu chỉnh sai số hệ 
thống [3]. Một sự giới thiệu tổng quan đầy đủ về 
các kĩ thuật xử lí sai số mô hình có thể được tìm 
thấy trong nghiên cứu [4]. Trong nghiên cứu 
này, một phương pháp khác dựa trên giả thiết 
rằng nguồn của sai số mô hình chủ yếu là do sự 
biểu diễn không đầy đủ của các quá trình vật lí 
sẽ được trình bày, tạm gọi là phương pháp lực 
nhiễu động. Trong phần tiếp theo, sự thiết lập cơ 
sở lý thuyết của phương pháp lực nhiễu động sẽ 
được thảo luận. Phần 3 mô tả các ứng dụng của 
phương pháp này đối với mô hình Lorenz 40-
biến. Sự mở rộng của phương pháp này cho một 
hệ với bậc tự do lớn hơn như là mô hình dự báo 
thời tiết số sẽ được xem xét trong phần 4, và một 
vài kết luận sẽ được đưa ra trong phần cuối cùng. 
2. Cơ sở lí thuyết 
Xem xét một phương trình mô tả sự tiến 
triển của một trạng thái x có dạng tổng quát như 
sau: 
)()( tM
dt
d Fxx += (1) 
trong đó x(t) ∈ ℜn là một vector trạng thái n-
chiều phụ thuộc vào thời gian có phân bố xác 
suất ban đầu đặc trưng bởi ma trận hiệp biến Pf, 
M là một mô hình phi tuyến mô tả sự tiến triển 
của trạng thái, và F(t) ∈ ℜn là vector lực1. Giả 
thiết một tập hợp số liệu quan sát ∈ ℜ
_______ 
1 Để đơn giản các ký hiệu, không gian Eulerian với metric 
đơn giản sẽ được ngầm hiểu sao cho x và các phép tính 
o
iy p p-
chiều được cho trước tại các thời điểm gián 
đoạn {ti∈I }với một phân bố xác suất đặc trưng 
bởi ma trận sai số hiệp biến R. Khi đó, lọc 
Kalman toàn phần cho phép đồng hoá tập số 
liệu quan sát này sẽ được cho bởi các phương 
trình dưới đây (xem [5]) 
o
iy
i
T
i
a
ii
f
i QLPLP += −−− 111
 (2) 
1
11 )(
−
−− += RHHPHPK TfiTfi
))(( fi
o
i
f
i
a
i xHyKxx −+=
f
i
a
i 1)( −−= PKHIP
trong đó và là ma trận sai số hiệp biến 
nền (hay dự báo) tại thời điểm i-1 và i, L là mô 
hình tiếp tuyến của mô hình M, và là 
ma trận sai số hiệp biến phân tích tại thời điểm 
i-1 và i, K là ma trận trọng số, Q
f
i 1−P
f
iP
a
i 1−P
a
iP
i là ma trận sai 
số mô hình, và H là toán tử biến đổi từ không 
gian mô hình sang không gian quan trắc. Lọc 
Kalman sẽ được áp dụng tại từng thời điểm i 
cho mỗi chu trình đồng hóa và sau đó được tích 
phân tiếp theo đến thời điểm thứ i+1 tại đó quá 
trình phân tích với bộ lọc Kalman lại được lặp 
lại. Như được thảo luận ở trong phần giới thiệu, 
hai nguồn sai số chính của mô hình đặc trưng 
bởi ma trận Q là các xấp xỉ số học của phương 
trình (1) và các lực cưỡng bức không được hiểu 
biết đầy đủ F. Mặc dù loại sai số đầu tiên liên 
quan đến thuật toán tích phân mô hình có thể 
được khắc phục bằng cách thiết kế các thuật 
toán tính toán hợp lí, loại sai số thứ hai liên 
quan đến tính chất vật lý rất khó kiểm soát và 
có đóng góp lớn nhất đến sai số mô hình tổng 
cộng, đặc biệt trong các hệ phức tạp như là hệ 
thống khí quyển-đại dương. Để bài toán được 
thiết lập một cách tường minh, giả thiết rằng 
các thuật toán sai phân hữu hạn của phương 
trình (1) là đủ chính xác sao cho sai số của mô 
hình do các xấp xỉ số học có thể được tạm bỏ 
qua và chúng ta do đó có thể tập trung hoàn vào 
vector có thể được thực hiện với topo tương ứng. Các ký 
tự in đậm ngụ ý các vector trong các không gian mô hình 
hay không gian quan trắc một cách tương ứng. 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 312
loại sai số mô hình vật lí. Giả thiết rằng lực F(t) 
là một biến ngẫu nhiên với một phân bố xác 
suất cho trước, nhiệm vụ của chúng ta bây giờ 
là tìm một biểu diễn cho ma trận sai số mô hình 
Q với giả thiết này. Từ phương trình mô hình 
(1), dạng biến phân của nó có dạng 
)()()( t
dt
d FxxJx δδδ += (3) 
trong đó gradient J(x) được định nghĩa bởi 
∂M/∂x. Trong trường hợp tổng quát nghiệm 
chính xác của phương trình (3) là không khả 
tích, vì với δF(t) phụ thuộc tường minh vào thời 
gian, nghiệm chính xác sẽ liên quan đến việc 
thừa số hoá các ma trận không khả nghịch. Tuy 
nhiên, chú ý rằng mặc dù F(t) phụ thuộc vào 
thời gian, phân bố thống kê của nhiễu lực lại có 
thể được giả thiết là không phụ thuộc vào thời 
gian với một phân bố xác xuất có biên độ cho 
trước, nghĩa là δF không phụ thuộc vào thời 
gian. Trong trường hợp này, nghiệm thuần nhất 
của phương trình (3) sẽ có dạng 
0321321
212111
...))(()(()((
)(()(()(((
21
111
1
111
xxJxJxJ
xJxJxJIx
δ
δ
++
++=
∫∫∫
∫∫∫
−−−
−−−
t
t
t
t
t
t
t
t
t
t
t
t
h
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
tttdtdtdt
ttdtdttdt
(4) 
trong đó δxo là nhiễu động ban đầu do điều kiện 
ban đầu không chính xác tại t = 0. Với nghiệm 
thuần nhất (4), nghiệm cuối cùng của phương 
trình (3) sẽ được cho bởi 
FxJxx δδδ ))(()()( 1 ttt h −−= (5) 
Nghiệm này có thể được viết ngắn gọn hơn 
bằng việc đưa vào toán tử sắp xếp thời gian T, 
được định nghĩa như là [6] 
∑ −−= −
σ
σσσσ σσθθ ))(())...1(()()...()}()...({ )()1()2()1(1 nttttttT nnn HHHH
(6) 
trong đó tổng σ chạy trên tất cả các giao hoán 
của (1....n), (tổng cộng có n! các giao hoán) và 
hàm Heaviside được định nghĩa bởi 
⎩⎨
⎧
<
≥=−
ji
ji
ji tt
tt
tt
0
1
)(θ 
 Một cách thực chất, toán tử sắp xếp thời gian 
sẽ sắp xếp lại tất cả các ma trận sao cho các ma 
trận với thời gian trễ nhất sẽ đứng ở phía ngoải 
cùng bên trái. Đây là một kĩ thuật rất quen 
thuộc trong bài toán lí thuyết trường lượng tử 
[6]. Với toán tử sắp xếp thời gian T, nghiệm (5) 
có thể được viết lại một cách cô đọng như sau 
FJxxJx δδττδ 10}])(([exp{)(
1
−−= ∫
−
t
ti
dTt (7) 
trong đó hàm mũ của ma trận được định nghĩa 
như là 
∑∞
=
=
0 !
)exp(
n
n
n
AA . (8) 
Nghiệm (7) có thể được kiểm tra một cách 
dễ dàng bằng cách thay nó trực tiếp vào phương 
trình (3). Với nghiệm (7), mô hình tiếp tuyến L 
được định nghĩa trong lọc Kalman sẽ có dạng 
}])(([exp{
1
∫
−
=
t
ti
dT ττ xJL (9) 
và sai số mô hình bây giờ sẽ được cho bởi 
}))({( 11 TE FJFJQ δδ −−≡ (10) 
Để tính toán sai số mô hình Q chú ý rằng 
nếu chúng ta có một tập mẫu n phép thử với 
cùng một điều kiện ban đầu sao cho δxo = 0, rõ 
ràng là khi đó từ phương trình (7) tất cả các sai 
số sẽ được tạo ra chỉ bởi lực nhiễu động δF, 
nghĩa là δx = δxh. Như vậy, chúng ta có thể thu 
được ma trận Q theo hai cách khác nhau. 
1. Tính toán trực tiếp ma trận Q bằng cách 
thống kê các vector (J-1δF). Điều này được 
thực hiện bằng phương pháp lấy mẫu n phép 
thử δF để tạo ra một mẫu n các vector (J-1δF). 
Từ đó, ma trận sai số mô hình Q có thể thu 
được một cách dễ dàng từ phương trình (10). 
2. Cách tiếp cận thứ hai là thực hiện n phép 
tích phân mô hình với các lực F được làm nhiễu 
một cách ngẫu nhiên. Các tích phân mô hình 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 313
tuy nhiên sẽ được tiến hành với cùng một điều 
kiện ban đầu sao cho tất cả các sai số mô hình 
trong các đầu ra có thể được gán cho các lực bị 
làm nhiễu. Đầu ra của các phép chạy này bây 
giờ có thể được tính toán thống kê để thu được 
ma trận Q. 
Phương pháp tiếp cận thứ hai sẽ được chọn 
trong nghiên cứu này bởi vì nó có thể được mở 
rộng một cách dễ dàng đối với các mô hình 
nghiệp vụ hoặc trong các trường hợp tổng quát 
hơn, ví dụ như các điều kiện biên bị làm nhiễu 
như được thảo luận trong phần 4. 
3. Thiết kế thí nghiệm 
Để xem xét một cách đầy đủ nhất có thể 
hiệu quả của thuật toán lực nhiễu động, mô hình 
Lorenz 40 biến sẽ được sử dụng như là một mô 
hình mẫu trong nghiên cứu này sao cho lọc 
Kalman toàn phần có thể được sử dụng. Cùng 
với điểm nổi bật của việc sử dụng lọc Kalman 
toàn phần, mô hình này có thể được tích phân 
một cách rất chính xác bằng việc sử dụng thuật 
toán Runge-Kutta bậc 4. Điều này sẽ làm tối 
thiểu hoá sai số mô hình do các phương pháp 
tính toán số và do đó cho phép xem xét một 
cách đầy đủ phương pháp lực nhiễu động. Để 
so sánh phương pháp mới với các cách tiếp cận 
khác, kĩ thuật thừa số tăng cấp nhân sẽ được 
thực hiện song song với phương pháp lực nhiễu 
động được trình bày trong phần 2. Một sự so 
sánh đầy đủ hơn với các kỹ thuật xử lý khác 
bao gồm tăng cấp cộng tính hay khử sai số hệ 
thống sẽ được đề cập đến trong các nghiên cứu 
tiếp theo. 
3.1. Mô hình 
Mô hình Lorenz 40-biến được cho bởi 
(xem [7]) 
FxMFxxxx
dt
dx
iiiii
i +≡+−−= −+− )()( 211 (11) 
Trong đó F được lấy chính xác F = 8.0 cho 
trạng thái thực. Điều kiện ban đầu của trạng thái 
thực sẽ được chọn một cách ngẫu nhiên. Một 
khi đã chọn, điều kiện ban đầu này tuy nhiên sẽ 
được giữ không đổi trong tất cả các thí nghiệm 
tiếp theo. Trạng thái thực ở trên sẽ được tích 
phân 1000 bước thời gian và in ra tại từng 
bước. Điều kiện biên tuần hoàn cho xi được áp 
dụng tại i = 0 sao cho x0 = xN. Mô hình này có 
sự tiến triển hỗn loạn sau một thời gian chuyển 
tiếp khoảng 50 bước tích phân. Bước thời gian 
δt = 0.01 sẽ được sử dụng trong tất cả các thí 
nghiệm. 
3.2. Mô hình tiếp tuyến 
Mô hình tiếp tuyến cho mô hình Lorenz có 
thể thu được trực tiếp từ phương trình (9). Do 
khối lượng tính toán lớn và các sai số làm tròn 
của tích phân ma trận, chúng tôi chỉ giới hạn 
các tính toán tại các xấp xỉ bậc một và bậc hai 
của phương trình (9). Với xấp xỉ bậc một, 
chúng ta thu được dạng quen thuộc 
∑
=
+≈
M
i
itxt
1
))((JIL δ (12) 
ở đó M là số bước tích phân mà tại đó quan trắc 
sẽ được đồng hóa. Ví dụ, M = 1 tương ứng với 
việc đồng hóa tại tất cả các bước tích phân, M = 
2 sẽ thực hiện đồng hóa tại từng 2 bước tích 
phân một. Với xấp xỉ bậc hai, L được cho bởi 
]))(([))((
11
∑∑
==
++≈
i
j
j
M
i
i txttxt JIJIL δδ (13) 
Vì chúng ta làm việc tường minh trong không 
gian ℜ40, mô hình liên hợp đơn giản là chuyển 
vị của mô hình tiếp tuyến (13). 
3.3. Lực nhiễu động 
Ngoại trừ trạng thái thực trong đó lực tác 
dụng được biết chính xác với F = 8.0, một tổ 
hợp gồm n thành phần các tích phân mô hình sẽ 
không có giá trị lực tác dụng chính xác mà 
được lấy từ một tập hợp gồm n phép lấy ngẫu 
nhiên có phân bố chuẩn với độ lệch chuẩn δF = 
1.0 được cộng tại từng bước tích phân. Như 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 314
được thảo luận trong phần 2, tất cả các phép thử 
phải có cùng một điều kiện ban đầu trong quá 
trình tích phân tổ hợp. Ma trận sai số hiệp biến 
mô hình Q sẽ thu được bắng cách lấy mẫu n 
đầu ra của tích phân tại các thời điểm đồng hóa. 
Đối với số liệu quan trắc cần thiết cho việc 
đồng hóa, các nhiễu động với phân bố Gauss và 
độ lệch chuẩn bằng 1.0 sẽ được cộng vào thành 
phần trạng thái thực của mô hình. 
3.4. Kết quả 
Để đánh giá độ chính xác của các phương 
pháp khác nhau, sai số căn quân phương (rms) 
của sai số giữa trạng thái phân tích và trạng thái 
thực tại các thời điểm đồng hóa sẽ được sử 
dụng với định nghĩa như sau: 
2/140
1
2)(
40
1
⎭⎬
⎫
⎩⎨
⎧ −= ∑
=k
t
k
a
k xxRMS 
Hình 1 chỉ ra một sự so sánh của sự tiến triển 
theo thời gian của rms cho các trường hợp 
không có hiệu chỉnh sai số mô hình (NOC), 
hiệu chỉnh sai số bằng phương pháp lực nhiễu 
động (PF20) với 20 thành phần, và phương 
pháp tăng cấp nhân điển hình (INF). Chúng ta 
có thể nhận thấy dễ dàng rằng đối với tất cả các 
cửa sổ đồng hóa M từ 1 đến 8 bước tích phân, 
PF20 cho một kết quả tốt hơn và rất ổn định so 
với INF. Cả PF20 và INF đều cho kết quả tốt 
hơn so với trường hợp sai số mô hình không 
được tính đến trong mô hình như nhìn thấy 
trong trường hợp NOC. Do các mô hình tiếp 
tuyến có độ sai lệch tích luỹ tăng theo khoảng 
đồng hóa M, có thể nhận thấy từ Hình 1 là với 
giá trị M lớn thì rms cũng tăng nhanh. Với M > 
15, lọc Kalman sẽ phân kỳ trong tất cả các 
phương pháp. Sự ổn định của phương pháp 
PF20 so với INF là có thể hiểu được nếu chúng 
ta chú ý là PF20 cho phép tính đến sai số nội tại 
của mô hình trong khi INF chỉ phụ thuộc vào 
tần số đồng hóa. Nói một cách khác, INF sẽ giả 
thiết là sai số mô hình tỷ lệ với sai số của ma 
trận hiệp biến phân tích. 
Hình 1. Sự tiến triển theo thời gian của rms giữa 
trạng thái phân tích và trạng thái thực cho các thí 
nghiệm NOC (đường liền nhạt), INF với thừa số 
nhân 0.03 (đường chấm), và PF20 (đường liền đậm) 
với M = 1, 2, 4, và 8. 
Để xem xét thêm độ nhậy của phương pháp 
lực nhiễu động, một loạt các thí nghiệm đã 
được tiến hành trong đó số lượng các thành 
phần tổ hợp tăng dần từ 10 đến 100 với M cố 
định bằng 14 như được chỉ ra trong Hình 2. 
Mặc dù các thí nghiệm với nhiều thành phần tổ 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 315
hợp cho rms nhỏ hơn như mong đợi (Hình 2), 
có thể nhận thấy rằng sự giảm của rms dường 
như bão hóa rất nhanh chỉ với 20 thành phần tổ 
hợp. 
Điều này chỉ ra rằng chỉ cần với một số ít 
các thành phân tổ hợp cũng có thể nắm bắt tốt 
cấu trúc và đặc trưng của trường sai số mô hình, 
một ưu điểm rất có ý nghĩa đối với các tính toán 
thực tế trong đó khối lượng tính toán lớn của 
mô hình không cho phép chúng ta có nhiều 
thành phần tổ hợp. 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
NO PF10 PF20 PF40 PF60 PF80 PF100 MF 
Hình 2. Sai số rms lấy trung bình trong khoảng 1000 
bước tích phân cho phương pháp lực nhiễu động với 
số thành phần tổ hợp là 10, 30, 50, 100 (xám), hiệu 
chỉnh tăng cấp (xám nhạt), và không có hiệu chỉnh 
sai số mô hình (xám đậm). 
4. Ứng dụng mở rộng 
Như đã được thảo luận trong phần 2, khuôn 
khổ lí thuyết trong phương pháp lực nhiễu động 
chỉ có ý nghĩa đối với các hệ như được cho bởi 
phương trình (1) với một số bậc tự do nhỏ. Đối 
với các hệ phức tạp hơn như là hệ trái đất-khí 
quyển, sẽ gần như không thể sử dụng phương 
pháp lọc Kalman toàn phần do số chiều của mô 
hình là quá lớn. Do đó, lọc Kalman tổ hợp phải 
được sử dụng [8]. Đối với các hệ như vậy, một 
sự mở rộng tự nhiên của phương pháp lực nhiễu 
động là lấy mẫu một cách trực tiếp các đầu ra 
của một tích phân tổ hợp mà có cùng điều kiện 
ban đầu như đã được xem xét trong phần 3. Vấn 
đề duy nhất phải chú ý là khi tính toán các sai 
số mô hình với phương pháp lực nhiễu động 
này là làm thế nào để có thể tạo ra một bộ nhiễu 
thích hợp. Đây là một câu hỏi mà phụ thuộc rất 
nhiều vào mô hình mà chúng ta có và bài toán 
chúng ta cần thiết phải giải quyết. Một cách cụ 
thể, giả thiết rằng chúng ta có một mô hình bão 
khu vực mà chúng ta muốn nghiên cứu tính dự 
báo của các bản tin dự báo đựờng đi của bão. 
Các nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng đường đi 
của bão phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố môi 
trường không tính được trong mô hình số ví dụ 
các sơ đồ tham số hóa đối lưu hay lớp biên. 
Trong trường hợp này, một cách rõ ràng nhất để 
tạo ra trường lực nhiễu động là sử dụng ngay 
các sơ đồ tham số khác nhau để tạo ra bộ nhiễu. 
Các tính toán liên tục của trường sai số mô hình 
với các sơ đồ tham số hóa này không đòi hỏi 
các mô hình tiếp tuyến hay mô hình liên hợp và 
do đó sẽ có ý nghĩa thực tế hơn. Với sai số mô 
hình ước lượng được bằng cách này, bộ lọc 
Kalman tổ hợp có thể được kết hợp để tạo ra 
bộ nhiễu trên cùng một tổ hợp thay vì chạy 2 tổ 
hợp riêng rẽ cho điều kiện ban đầu và cho sai số 
mô hình. 
5. Kết luận 
Trong bài nghiên cứu này, phương pháp xác 
định sai số mô hình bằng cách tạo ra bộ nhiễu 
ngẫu nhiên của lực tác dụng đã được khảo sát l ý 
thuyết một cách tường minh. Phương pháp 
nhiễu lực được dựa trên giả thiết rằng nguồn 
gốc lớn nhất của sai số mô hình là do các hiểu 
biết không đầy đủ của các quá trình vật lý trong 
mô hình, đặc biệt trong các hệ phức tạp như khí 
quyển đại dương. Phương pháp lực nhiễu động 
trên đã được kiểm nghiệm trên mô hình Lorenz 
và đã chỉ ra một vài tính chất nổi bật bao gồm 
1) sự ổn định của thuật toán đối với một khoảng 
rộng của cửa số đồng hóa, 2) độ chính xác cao 
hơn phương pháp tăng cấp bội thuần tuý , và 3) 
K.Q. Chánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 310‐316 316
Tài liệu tham khảo độ chính xác được duy trì tốt ngay cả với một 
số ít các thành phần tổ hợp. Điều này rất được 
trông đợi cho các ứng dụng thực tế trong đó 
khối lương tính toán rất lớn của mô hình nghiệp 
vụ không cho phép chúng ta có nhiều thành 
phần tổ hợp. Mở rộng của phương pháp lực 
nhiễu động cho hệ thống với nhiều bậc tự do 
cũng đã được thảo luận. Nghiên cứu và ứng 
dụng chi tiết hơn của phương pháp lực nhiễu 
động sẽ được trình bày trong nghiên cứu tới. 
[1] J. L. Anderson, and S. L. Anderson, A Monte 
Carlo implementation of the non-linear filtering 
problem to produce ensemble assimilations and 
forecasts. Mon. Wea. Rev., 127 (1999) 2741. 
[2] H. L. Mitchell, and P. L. Houtekamer A