Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta. Chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề ấy một cách sâu sắc và toàn diện, không chỉ để ôn cố tri ân, mà còn nhằm mục đích góp phần xây dựng một chiến lược phát triển hài hòa cho khắp nước và mỗi người dân, từ thể chất đến tinh thần, từ thành thị đến thôn quê.
Dựa trên nguồn tư liệu địa bạ đồ sộ hàng triệu trang trong kho tàng di sản văn hóa và lịch sử Hán Nôm còn lưu lại đến ngày nay thì đây chính là những cứ liệu để các nhà nghiên cứu tiếp tục tiến hành những công trình tìm hiểu đất nước và con người Việt Nam. Mục đích quan trọng hơn, chúng ta sẽ lưu giữ được những tư liệu quý giá về địa bạ, không để chúng bị thất lạc, hủy hoại, đánh cắp, mối mọt vì đây là những tư liệu viết tay, không in ấn, nếu mất là mất hẳn.
Trong thời gian mấy chục năm gần đây, với việc coi địa bạ là một nguồn tư liệu nghiên cứu nhiều giá trị đã khiến cho việc khai thác kho tư liệu này đạt nhiều thành tựu quan trọng: về đặc điểm của nền nông nghiệp cổ truyền Việt Nam, sự phân hóa xã hội ở nông thôn, kết cấu xã hội và các giai tầng trong làng xã, chế độ sở hữu ruộng đất với nhiều hình thái sở hữu
Nguyễn Đình Đầu là người đi đầu trong việc khai thác kho tư liệu địa bạ cực kỳ phong phú này. Trong bao tháng ngày lăn lộn miệt mài trên hàng trăm cây số, với vô vàn những con số khô khan, ông đã cho ra mắt công trình nghiên cứu công phu, tỉ mỉ của mình: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn trên nhiều địa phương khác nhau. Đó được coi là một trong những công trình lớn nhất về khoa học lịch sử ở cuối thế kỷ XIX của chúng ta. Nhiều tên tuổi khác thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, đầu sách về địa bạ như: Nguyễn Đức Nghinh, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trương Hữu Quýnh, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo với nhiều bài viết, chuyên luận nghiên cứu sâu về nhiều phương diện của địa bạ.
29 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vài nét về tình hình ruộng đất ở Bình Dương nửa đầu thế kỷ XIX (Qua việc nghiên cứu địa bạ tỉnh Giai Định lập năm 1836), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa lịch sử
Tiểu Luận
Đề tài:
Vài nét về tình hình ruộng đất ở Bình Dương nửa đầu thế kỷ XIX (Qua việc nghiên cứu địa bạ tỉnh Giai Định lập năm 1836)
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta. Chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề ấy một cách sâu sắc và toàn diện, không chỉ để ôn cố tri ân, mà còn nhằm mục đích góp phần xây dựng một chiến lược phát triển hài hòa cho khắp nước và mỗi người dân, từ thể chất đến tinh thần, từ thành thị đến thôn quê.
Dựa trên nguồn tư liệu địa bạ đồ sộ hàng triệu trang trong kho tàng di sản văn hóa và lịch sử Hán Nôm còn lưu lại đến ngày nay thì đây chính là những cứ liệu để các nhà nghiên cứu tiếp tục tiến hành những công trình tìm hiểu đất nước và con người Việt Nam. Mục đích quan trọng hơn, chúng ta sẽ lưu giữ được những tư liệu quý giá về địa bạ, không để chúng bị thất lạc, hủy hoại, đánh cắp, mối mọt…vì đây là những tư liệu viết tay, không in ấn, nếu mất là mất hẳn.
Trong thời gian mấy chục năm gần đây, với việc coi địa bạ là một nguồn tư liệu nghiên cứu nhiều giá trị đã khiến cho việc khai thác kho tư liệu này đạt nhiều thành tựu quan trọng: về đặc điểm của nền nông nghiệp cổ truyền Việt Nam, sự phân hóa xã hội ở nông thôn, kết cấu xã hội và các giai tầng trong làng xã, chế độ sở hữu ruộng đất với nhiều hình thái sở hữu…
Nguyễn Đình Đầu là người đi đầu trong việc khai thác kho tư liệu địa bạ cực kỳ phong phú này. Trong bao tháng ngày lăn lộn miệt mài trên hàng trăm cây số, với vô vàn những con số khô khan, ông đã cho ra mắt công trình nghiên cứu công phu, tỉ mỉ của mình: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn trên nhiều địa phương khác nhau. Đó được coi là một trong những công trình lớn nhất về khoa học lịch sử ở cuối thế kỷ XIX của chúng ta. Nhiều tên tuổi khác thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, đầu sách về địa bạ như: Nguyễn Đức Nghinh, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trương Hữu Quýnh, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo…với nhiều bài viết, chuyên luận nghiên cứu sâu về nhiều phương diện của địa bạ.
Việc nghiên cứu các vấn đề nông thôn trong lịch sử dựa trên nguồn địa bạ là một vấn đề rất rộng và phức tạp, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải đi sâu tìm hiểu, thống kê, mô tả rồi phân tích. Với một kho tư liệu đồ sộ hiện có, có thể nói các nhà nghiên cứu đang phải “bơi” trong đó. Chỉ một vấn đề nhỏ thôi, chỉ một thôn, một xã, huyện nào đó cũng cần tới bàn tay của nhà nghiên cứu thống kê để đưa ra được những kết luận chính xác nhất.
Với nguồn tư liệu sưu tầm được, trong khuôn khổ một bài tiểu luận về vấn đề ruộng đất trong lịch sử và xã hội Việt Nam, tác giả bài viết muốn được quan tâm, làm rõ về tình hình ruộng đất trên địa bàn một huyện trong hệ thống làng xã Việt Nam: huyện Bình Dương (tỉnh Gia Định) hồi nửa đầu thế kỷ XIX. Với bài viết này, tác giả hy vọng sẽ làm phong phú thêm bức tranh nông thôn Việt Nam thời kỳ đầu nhà Nguyễn.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: HUYỆN BÌNH DƯƠNG
1. Vị trí địa lý
Bình Dương xưa nằm trên địa bàn tỉnh Gia Định – nay là thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Tây Ninh, Long An và một phần tỉnh Tiền Giang. Phía đông của huyện đến cửa biển Cần Giờ; phía tây vượt qua chằm gò, tiếp giáp miền thượng; phía nam đến ngã ba Thị Phổ và tổng Tân Phong huyện Tân Long rồi ngược dòng Rạch Ong nhỏ (Quận 8) thẳng lên cửa cống chợ Tân Kiểng đến hồ Lão Nhông (Hóc Môn); phía đông nam giáp tổng Lộc Thành huyện Phước Lộc (Cần Giuộc); phía tây nam giáp tổng Bình Cách huyện Thuận An.
2. Cơ cấu đơn vị hành chính
Trước là tổng, nay cải làm huyện gồm: 6 tổng, 95 làng, 27 thôn,
trong đó:
Dương Hòa Hạ (8 thôn) Bình Trị Hạ (26 làng)
Dương Hòa Trung (21 làng) Bình Trị Trung (21 làng)
Dương Hòa Thượng ( 19 thôn) Bình Trị Thượng (27 làng)
3. Tiến trình lịch sử của huyện Bình Dương
Từ gần 200 năm qua, chúng ta đã chứng kiến một quá trình đô thị hóa với tốc độ rất cao ở Bình Dương. Nghiên cứu kỹ lưỡng sưu tập địa bạ tỉnh Gia Định, chúng ta mới hiểu được những giai đoạn phát triển cực kỳ nhanh chóng của dải đất nằm giữa sông Bến Nghé và sông Vàm Cỏ Đông mà hiện nay Bình Dương đã trở thành một khu công nghiệp hàng đầu cả nước.
Bình Dương cho đến trước khi lập địa bạ năm 1836 là 1 trong 4 huyện của phủ Tân Bình thuộc trấn Phiên An . Lãnh 2 tổng, 150 xã, thôn, phường, lân, ấp. Trong đó, tổng Bình Trị (có 76 xã, thôn, phường, lân, ấp) và tổng Dương Hòa (có 74 xã, thôn, phường, lân, ấp). Năm 1832, đổi trấn ra tỉnh, đổi thành Gia Định làm thành Phiên An (không còn tên Gia Định nữa). Huyện Bình Dương vẫn thuộc phủ Tân Bình thuộc quyền thống trị của tỉnh Phiên An. Năm 1836, cải tỉnh Phiên An làm tỉnh Gia Định. Bình Dương trở thành 1 huyện nằm trong phủ Tân Bình của tỉnh Gia Định.
Dưới thời Pháp thống trị:
Năm 1862: huyện Bình Dương phủ Tân Bình thuộc lỵ sở Sài Gòn có 6 tổng , 72 làng, trong đó:
Bình Trị Thượng (14 làng) Dương Hòa Thượng (11làng) Bình Trị Trung (8 làng) Dương Hòa Trung (13 làng)
Bình Trị Hạ (11 làng) Dương Hòa Hạ (15 làng)
Năm 1867: huyện bình Dương thuộc hạt Sài Gòn có 6 tổng, 85 làng, trong đó:
Bình Trị Thượng (16 làng) Dương Hòa Thượng (13làng) Bình Trị Trung (14 làng) Dương Hòa Trung (9 làng)
Bình Trị Hạ (10 làng) Dương Hòa Hạ (23 làng)
Năm 1972: huyện Bình Dương là 1 trong 3 huyện (Bình Dương, Bình Long, Ngãi An) của hạt Sài Gòn có 7 tổng với 103 làng, trong đó:
Bình Trị Thượng (16 làng) Dương Hòa Thượng (15làng) Bình Trị Trung (18 làng) Dương Hòa Trung (9 làng)
Bình Trị Hạ (13 làng) Dương Hòa Hạ (27 làng)
Cần Giờ (5 làng)
Năm 1889, bãi bỏ cấp khu vực hành chính và quân sự, đổi tên địa hạt ra tỉnh Trên địa bàn tỉnh Gia Định xưa (1836) nay có thành phố Sài Gòn (một phần huyện Bình Dương).
Năm 1910,tỉnh Gia Định chia ra 18 tổng, không còn thấy xuất hiện tên gọi Bình Dương.
Trong 30 năm 1945 – 1975 dưới chế độ Sài Gòn, huyện Bình Dương đã có nhiều thay đổi trong các đơn vị hành chính theo tình hình diễn biến chung của toàn tỉnh. Tổng hết còn là đơn vị trung gian, quận là cấp hành chính giữa huyện với xã, bỏ danh xưng huyện. Bình Dương được thành lập thành một tỉnh mới.
Tỉnh Bình Dương được thành lập từ năm 1956, đến ngày giải phóng thì bị bãi bỏ. Trong thời gian gần 20 năm đó, ranh giới và đơn vị hành chính của tỉnh đã có nhiều lần thay đổi. Song ở thời điểm 1970, tỉnh Gia Định có 1 trong 6 quận tên là quận Phú Hòa, nay thuộc địa bàn thành phố. Quận này cũng được tách từ quận Hóc Môn tỉnh Gia Định, gồm 2 tổng Long Tuy Trung và Bình Thạnh Trung trước kia (trước thời thuộc Pháp, các tổng Bình Thạnh và Long Tuy hợp thành huyện Bình Long). 5 quận còn lại xưa thuộc tỉnh Biên Hòa (1836), nay thuộc tỉnh Sông Bé. Sau giải phóng, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương hợp với quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa thành huyện Củ Chi thuộc Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đến năm 1994, Bình Dương thuộc quận Phú Hòa thành phố Hồ Chí Minh. Và hiện nay Bình Dương là 1 tỉnh độc lập, là 1 trong những khu công nghiệp phát triển nhất cả nước.
CHƯƠNG II: HUYỆN BÌNH DƯƠNG QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠN GIA ĐỊNH LẬP NĂM 1836
I. Địa bạ Bình Dương trong kho địa bạ cổ
1. Địa bạ cổ Việt Nam
Địa bạ là một nguồn tư liệu vô cùng phong phú để nghiên cứu về nông thôn Việt Nam trên nhiều phương diện, đúng như định nghĩa về nó trong địa bạ Hà Đông : “Địa bạ là văn bản chính thức và địa giới và diện tích các loại ruộng đất, các loại hình sinh hoạt ruộng đất của làng xã, được lập trên sự khám được và xác nhận của chính quyền, dùng làm cơ sở cho việc quản lý ruộng đất và thu tô thuế của Nhà nước”. Có thể tổng kết một cách tổng quát về địa bạ như vậy, tuy mỗi thời và mỗi nơi, tên gọi và quy cách địa bạ có khác nhau. Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: địa bạ là sổ mô tả và ghi nhận quyền sở hữu từng mảnh ruộng đất, được làm một lần khi đo đạc. Diện tích ruộng đất được ghi theo mẫu, sào, thước, tấc.
Trong lịch sử Việt Nam, lần đầu tiên Nhà nước tiến hành lập sổ địa bạ là vào năm 1092 dưới triều Lý, bây giờ gọi là điền tịch. Thời Lê Sơ, ngay sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, năm 1428 Lê Lợi đã ra lệnh cho các địa phương tiến hành điều tra, khám xét tình hình ruộng đất và canh tác ruộng đất, lập lại địa bạ trong 1 năm. Các thế kỷ về sau, công việc lập và tu bổ lại địa bạ được tiến hành rải rác trong nhiều năm.
Nhà Nguyễn sau khi bình định xong cả nước (1802) đã ý thức ngay được tầm quan trọng của việc lập địa bạ. Năm 1803, một năm sau khi lên ngôi, Gia Long đã sai lập địa bạ các trấn thuộc Bắc Hà tức vùng Đàng Ngoài thuộc quyền cai trị của chúa Trịnh trước đây. Công việc căn bản được hoàn thành năm Gia Long 4 (1805). Đến năm Gia Long 9 (1810) quyết định triển khai công việc ở các tỉnh từ Quảng Bình trở vào đến cực Nam Trung Bộ. Tuy nhiên việc lập địa bạ ở những tỉnh này tiến hành có vẻ chậm chạp nên phải tới những năm cuối thời Minh Mệnh mới xong. Năm 1836, Minh Mệnh thực hiện một quyết định lớn: đo đạc lại toàn bộ ruộng đất Nam kỳ và lập sổ địa bạ cho các làng xã ở đây. Kế hoạch được triển khai nhanh, triệt để và đạt kết quả tốt.
Như vậy, cho đến hết thời Minh Mệnh, nhà Nguyễn về cơ bản đã lập xong sổ địa bạ trên toàn quốc. Từ thời Thiệu Trị (1841) cho đến hết thời Bảo Đại (1945) công việc còn lại chỉ là bổ sung thêm địa bạ của một số địa phương vì lý do này hay lý do khác mà trong những đợt làm địa bạ lớn chưa thực hiện được. Vì thế, trong tổng số 18.519 đơn vị địa bạ còn lưu giữ được tại hai kho địa bạ lớn nhất nước ta hiện nay là Viện nghiên cứu Hán Nôm và Cục lưu trữ Nhà nước thì số địa bạ có niên đại Gia Long và Minh Mệnh lên tới 17.604 đơn vị địa bạ, chiếm tỷ lệ 95,6%
Địa bạ hiện phân bố không đều giữa các miền, các tỉnh, nói chung tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, trong đó:
Địa bạ Bắc kỳ gồm 4.296 tập với 8.704 địa bạ của 162 huyện đương thời.
Địa bạ Trung kỳ gồm 5.264 tập với 6.465 địa bạ.
Địa bạ Nam kỳ gồm 484 tập với 1.715 địa bạ của 26 huyện thuộc 6 tỉnh Nam kỳ thời Nguyễn. Địa bạ này tập trung chủ yếu vào niên đại 1836 (chiếm tới 95,6%). Đó là năm triều Nguyễn lập địa bạ trên quy mô lớn toàn Nam kỳ.
Với một kho tư liệu địa bạ đồ sộ và vô cùng quý giá trên sẽ giúp ích rất lớn cho các nhà nghiên cứu lịch sử nông thôn Việt Nam trên nhiều phương diện.
2. Địa bạ huyện Bình Dương năm 1836
Theo đơn vị hành chính năm 1836, huyện Bình Dương là một huyện năm trong phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định. Lúc đó tỉnh Gia Định vừa được đổi từ tỉnh Phiên An sang.
Địa bạ Bình Dương nằm trong bộ sưu tập địa bạ tỉnh Gia Định có 122 quyển cho 122 làng. Sau khi xếp đặt lại theo đúng hệ thống hành chính, từ xã, thôn tới tổng rồi huyện, phủ, tỉnh và nghiên cứu tứ cận của mỗi xã thôn, chúng ta khám phá ra huyện Bình Dương mất 1 địa bạ.
Công cuộc đạc điền lập địa bạ cho Nam kỳ lục tỉnh vào năm 1836 là lần đầu tiên và cũng là lần sau chót của triều Nguyễn. Mục đích chính của việc này là làm cho mỗi người dân có một tổ chức xã thôn làm quê hương và một số ruộng đất để nuôi thân.
Địa bạ huyện Bình Dương cũng như các địa bạ khác thời Minh Mệnh, được trình bày theo cùng khuôn khổ giống nhau:
Phần đầu tiên của địa bạ ghi rất rõ đây là địa bàn huyện Bình Dương, thuộc phủ Tân Bình tỉnh Gia Định. Tiếp theo là mô tả ranh giới của huyện, rồi đến những số liệu tổng quát về ruộng đất bao gồm tổng ruộng đất công tư (tổng diện tích công tư điền thổ), trong đó có bao nhiêu ruộng đất canh tác (thực trưng), bao nhiêu ruộng đất bỏ hoang (lưu hoang). Trong từng loại tư điền, tư thổ cũng phân chia rất rõ ràng gồm bao nhiêu là thực trưng, bao nhiêu lưu hoang và cụ thể trong từng loại ruộng hay đất đó thì chất lượng ra sao (sơn điền, thảo điền). Tiếp theo là các loại ruộng đất khác như là quan điền, quan thổ viên…Phần tiếp theo và cũng là phần chính của địa bạ, miêu tả cụ thể từng thửa ruộng, rồi đến đất tư hữu với các thông tin: diện tích, vị trí, giáp giới bốn phía đông, tây, nam, bắc, họ tên người chủ sở hữu thửa ruộng đó, đồng thời ghi rõ người chủ sở hữu đó thuộc loại phân canh hay phụ canh. Phần cuối cùng là các thủ tục hành chính của địa bạ.
II. Một số đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Bình Dương qua phân tích tư liệu địa bạ Gia Định lập năm 1836
1. Những số liệu tổng quát trong địa bạ và đặc điểm sở hữu ruộng đất
Trước khi lập địa bạ, hầu như tư điền chưa được xác định rõ ràng, ít nhất về mặt pháp lý và chính thức ghi vào sổ bạ. Trương Đăng Quế nói rõ về quan điểm này : “ Nam kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm ruộng đất xã khác, mà người sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy và ở. Có nơi ruộng chỉ khai một thửa , tô thuế nguyên trưng không quá ba, bốn hộc, nay đã chia làm sáu, bảy thửa bán cho người khác, mà các người mua ấy đều phải nộp thóc gấp bội cho chủ nguyên trưng thu riêng; lại còn nhiều nỗi sách nhiễu không kể xiết! Nay khám đạc lại thì mọi người cứ chiếm phần mình cày cấy, nộp thuế, không bị cường hào ức hiếp”. Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu như trên rất quan trọng vừa hợp tình, vừa hợp lý. Nhà nước chống lại tệ nạn bá chiếm : Ai đang cày cấy thửa ruộng nào thì “Sở hữu” thửa ruộng đó.
Theo số liệu của địa bạ huyện Bình Dương năm 1836, các loại ruộng đất được phân bố như sau:
Bảng 1: Sự phân bố các loại ruộng đất của huyện Bình Dương
TT
Loại ruộng
Diện tích
Tỷ lệ (%)
1
Thực trưng
4198.4.4.2
99,30%
* Thực canh
- Điền thực canh
+ Tư điền
+ Công điền
- Thổ thực canh
+ Tư thổ
+ Công thổ
3193.1.8.2
2516.2.9.8
2317.8.3.8
198.4.6.0
676.8.8.4
636.4.6.9
40.4.1.5
75,52%
59,51%
54,82%
4,69%
16,00%
15,05%
0,95%
* Sử dụng vào việc khác
- Tịch điền
- Quan dụng
- Dân cư thổ
1005.2.6.0
3.0.0.0
360.0.10.0
642.1.6.0
23,78%
0,07%
8,52%
15,19%
2
Lưu hoang
29.5.7.5
0.70%
Tổng cộng
4227.9.11.7
100.00%
* Ghi chú: Cột tỷ lệ trong bảng trên được tính so với tổng diện tích ruộng đất của cả huyện.
- Số liệu thống kê trên cho thấy: Sở hữu tư nhân (bao gồm cả tư điền và tư thổ) lên tới 69,87% tổng diện tích ruộng đất, chiếm hơn 2/3 diện tích ruộng đất của cả huyện.
- Một điểm đáng lưu ý trong sự phân bố ruộng đất của huyện Bình Dương năm 1836 là hầu như chỉ có tư điền, tư thổ; công điền thổ chiếm tỷ lệ rất ít (5,64% tổng diện tích ruộng đất của huyện), quan dụng chiếm 8,52% tổng diện tích ruộng đất của huyện.
- Ruộng đất lưu hoang của Bình Dương chiếm 0,70% tổng diện tích ruộng đất cả huyện.
Trong khi đó, ruộng đất cả tỉnh Gia Định cũng vào thời điểm lập năm địa bạ 1836 được phân bố như sau :
- So sánh với tỷ lệ ruộng tư của cả tỉnh Gia Định cùng thời điểm thì mức độ sở hữu tư nhân về ruộng đất của Bình Dương thấp hơn (69,87% - 91,97%).
Tổng số tư điền, tư thổ của Gia Định là 156645.2.7.0, trong đó :
+ Tư điền là 155664.8.3.8 thì huyện Bình Dương chiếm 1,488% của tỉnh. Số ruộng tư điền của huyện Bình Dương là thấp nhất trong cả tỉnh. Trong tỉnh Gia Định, huyện Tân Hòa có diện tích tư điền lớn nhất, gấp gần 30 lần diện tích tư điền huyện Bình Dương.
+ Tư thổ của toàn tỉnh Gia Định là 980.3.13.7. Bình Dương là một trong hai huyện của Gia Định có tư thổ với diện tích 636.4.6.9.
Nói chung, diện tích tư thổ rất ít đối với tư điền. Tư thổ chiếm 21,54% trong khi tư điền chiếm 78,46% toàn huyện. Trong tư thổ thì đất trồng cau (tức viên lang thổ) chiếm tới quá nửa diện tích và tập trung trong tổng Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương đặc biệt là thôn Hanh Phú và xã Hanh Thông thuộc tổng Bình Trị Hạ (trong quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh nay).
Bảng 2: Sự phân bố ruộng đất của tỉnh Gia Định
(theo số liệu địa bạ của Gia Định lập năm 1836)
TT
Loại ruộng
Diện tích
Tỷ lệ (%)
1
Thực trưng
169325.8.8.6
99,41%
* Thực canh
- Điền thực canh
+ Tư điền
+ Công điền
- Thổ thực canh
+ Tư thổ
+ Công thổ
162955.3.12.7
161903.7.11.0
155664.8.8.3
6238.9.2.7
1051.6.1.7
980.3.13.7
71.2.3.0
95,67%
95,05%
91,39%
3,66%
0,62%
0,58%
0,04%
* Sử dụng vào việc khác
- Tịch điền
- Quan dụng
- Dân cư thổ
3.0.0.0
360.0.10.0
6007.4.0.9
3,742%
0,002%
0,21%
3,53%
2
Lưu hoang
1008.3.8.7
0,59%
Tổng cộng
170334.2.2.3
100.00%
* Ghi chú: Cột tỷ lệ trong bảng trên được tính so với tổng diện tích ruộng đất của cả tỉnh.
- Toàn tỉnh Gia Định có 3,70% tổng diện tích ruộng đất là công điền thổ, thấp hơn so với tỷ lệ ruộng đất công điền thổ của huyện Bình Dương là 5,64%.
- Xét riêng điền thực canh, huyện Bình Dương có 59,51%, nhưng tỷ lệ loại đất này của Gia Định tới 95,05%, gần gấp đôi Bình Dương.
- Ngược lại, thổ thực canh của huyện Bình Dương là 16,00%, nhưng tỷ lệ loại đất này của Gia Định chỉ có 0,62% (tỷ lệ 1 / 2,58).
- Tỷ lệ ruộng đất lưu hoang của Bình Dương cũng tương đương so với toàn tỉnh Gia Định (0,70% - 0,59%).
2. Tình trạng sở hữu ruộng đất tư
Với quy mô sở hữu ruộng đất tư ở Bình Dương chúng ta có thể đi sâu xem xét cụ thể mức độ phân bố ruộng đất của các chủ sở hữu :
Bảng 3 : Quy mô sở hữu ruộng đất tư của huyện Bình Dương
Quy mô sở hữu
Số chủ
Diện tích sở hữu
Dưới 1 mẫu
1 – 5 mẫu
5 – 10 mẫu
10 – 20 mẫu
20 – 50 mẫu
50 – 70 mẫu
476 = 50,91%
305 = 32,62%
80 = 8,56%
46 = 4,92%
23 = 2,46%
5 = 0,53%
164.8.4.6 = 5,58%
692.8.0.3 = 23,45%
541.3.5.8 = 18,32%
644.0.2.5 = 21,80%
602.5.8.0 = 20,40%
308.6.9.5 = 10,45%
Tổng cộng
935 = 100.00%
2954.3.0.7 = 100.00%
Từ bảng 3, chúng ta nhận thấy:
- Cộng chung tư điền tư thổ của huyện Bình Dương có 2954.3.0.7 (2317.8.3.8 + 636.4.6.9) nếu chia bình quân cho 935 chủ điền, thì mỗi người sẽ có 3.1.8.9. Như vậy, 703 chủ sở hữu có dưới mức trung bình (476 + 151 + 76) và 232 chủ có số ruộng đất trên mức trung bình. Nếu tính 13 chủ có trên 30 mẫu thì cộng chung sẽ có 620.4.2.5 ruộng đất, tức 1,39% số chủ chiếm tới 21% tổng số ruộng đất tư của cả huyện Bình Dương. Tuy nhiên, nói chung huyện Bình Dương vẫn là vùng tiểu nông. ( Người sở hữu ruộng đất ít nhất có 0.0.4.5, người sở hữu nhiều ruộng nhất có 68.8.12.0 ).
Trong khi đó, so với thôn Bình Ân thuộc tổng Hòa Lạc huyện Tân Hòa phủ Tân An, nếu cộng chung diện tích của 11 chủ điền có nhiều ruộng nhất ta sẽ thấy số đó nhiều hơn cả diện tích của 935 chủ điền ở huyện Bình Dương cộng lại, tức 2989.3.4.6 đối với 2954.2.10.7.
- Có tới 476 chủ ở Bình Dương có mức sở hữu ruộng đất dưới 1 mẫu. Và vì vậy, mặc dù số lượng chủ này chiếm 50,91% tổng số chủ song tổng diện tích ruộng đất họ sở hữu thì lại quá nhỏ (5,58%).
- Bên cạnh đa số những người nông dân tự canh có sở hữu nhỏ thì cũng tồn tại một số ít chủ có mức sở hữu tương đối lớn ( 5 chủ sở hữu 308.6.9.5 chiếm 10,45% toàn huyện).
3. Chất lượng ruộng
Trước kia, điền canh hay ruộng lúa chia làm thứ hạng (nhất, nhì, ba) và có những tên như ruộng Điền tô, ruộng Điền mẫu, ruộng Thiên Mụ, ruộng Cảnh Dương (không hiểu là thứ hạng tốt xấu để tính thuế hay tên địa phương để nộp thuế vào kho có tên ấy). Khi làm địa bạ năm 1836, Nhà nước chia đơn giản ra hai loại tốt xấu để đánh thuế, gọi là thảo điền và sơn điền. Như Minh Mạng chỉ thị : “nay bỏ các đẳng hạng mà chỉ còn phân biệt thảo điền và sơn điền. Phàm những tên gọi là Điền tô, Điền mẫu…không dùng nữa”. Tuy nhiên, địa bạ còn giữ lại “Điền tô điền”
- Gia Định xưa có:
+Thảo điền (kể cả Điền tô điền) là 133962.7.8.0 chiếm 82,742%.
+ Sơn điền (kể cả ruộng mới khẩn) là 27940.9.3.0 chiếm 17,258%.
Nói chung, Gia Định có 82/100 thảo điền, tức ruộng tốt, nhưng cá biệt như huyện Bình Dương lại có tỷ lệ Sơn điền > Thảo điền : 1559.7.10.3 – 956.4.14.3 với tỷ lệ 61,99% - 38,01%.
- So với toàn tỉnh, huyện Bình Dương có diện tích 2516.2.9.8 chiếm 1,554% tỉnh. Trong đó :
+ Thảo điền : 956.4.14.3 chiếm 0,713% của thảo điền tỉnh.
+ Sơn điền : 1559.7.10.5 chiếm 5,582% của sơn điền tỉnh.
Sơ đồ tỷ lệ diện tích sơn điền và thảo điền của huyện Bình Dương