Đề tài Vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính

Một trong các hình thức quản lí HCNN là ban hành văn bản QPPL. Số lượng văn bản QPPL do các cơ quan HCNN ban hành là rất lớn, tương ứng với đó là số lượng lớn QPPL hành chính do các cơ quan HCNN xây dựng. Điều đó dường như không phù hợp với chức năng cơ bản của bộ máy HCNN. Sở dĩ như vậy là chủ yếu bởi các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp không hoạt động thường xuyên và việc mở rộng phạm vi các vấn đề chỉ cơ quan quyền lực nhà nước mới được phép quyết định không phải vô tận. Mặt khác, pháp luật hiện hành và thực tiễn quản lí khẳng định khả năng lập quy độc lập của các cơ quan HCNN. Những quy tắc xử sự nói chung trong luật và các văn bản khác cũng như QPPL hành chính nói riêng của cơ quan quyền lực nhà nước không bao hàm hết mọi vấn đề của đời sống xã hội. Chúng chỉ là những quy định chung cần được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực quản lí HCNN. Nhiệm vụ cụ thể hoá đó được pháp luật trao cho các cơ quan HCNN tương ứng. Xây dựng pháp luật là hoạt động quan trọng của nhà nước. Trong đó, xây dựng QPPL hành chính lại càng có ý nghĩa quan trọng vì đây là phương tiện chủ yếu và là cơ sở của quản lí HCNN. Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan HCNN ban hành trên cơ sở cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định của hiến pháp, luật và pháp lệnh trong lĩnh vực quản lí HCNN.

doc11 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, được thành lập để thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước. Quy phạm pháp luật hành chính là các quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành, chủ yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước (còn gọi là hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước). Trong quản lí hành chính nhà nước, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước cần đến quy phạm pháp luật để định ra các khuôn mẫu xử sự chung cho các đối tượng quản lí. Phần lớn quy phạm pháp luật hành chính là do cơ quan hành chính nhà nước ban hành. Vậy vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng quy phạm pháp luật hành chính là như thế nào? Các cơ quan này có vai trò gì đối với việc thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính mà phần lớn do chính mình ban hành ra không? Để trả lời câu hỏi đó cũng như nâng cao hiểu biết về hoạt động lập quy của các cơ quan hành chính nhà nước, trong bài tập cuối kì này, em xin trình bày vấn đề: “Vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính”. I/ Vai trò của cơ quan HCNN trong việc xây dựng QPPL hành chính Xây dựng QPPL hành chính là quyền và nhiệm vụ của cơ quan HCNN Một trong các hình thức quản lí HCNN là ban hành văn bản QPPL. Số lượng văn bản QPPL do các cơ quan HCNN ban hành là rất lớn, tương ứng với đó là số lượng lớn QPPL hành chính do các cơ quan HCNN xây dựng. Điều đó dường như không phù hợp với chức năng cơ bản của bộ máy HCNN. Sở dĩ như vậy là chủ yếu bởi các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp không hoạt động thường xuyên và việc mở rộng phạm vi các vấn đề chỉ cơ quan quyền lực nhà nước mới được phép quyết định không phải vô tận. Mặt khác, pháp luật hiện hành và thực tiễn quản lí khẳng định khả năng lập quy độc lập của các cơ quan HCNN. Những quy tắc xử sự nói chung trong luật và các văn bản khác cũng như QPPL hành chính nói riêng của cơ quan quyền lực nhà nước không bao hàm hết mọi vấn đề của đời sống xã hội. Chúng chỉ là những quy định chung cần được cụ thể hoá trong từng lĩnh vực quản lí HCNN. Nhiệm vụ cụ thể hoá đó được pháp luật trao cho các cơ quan HCNN tương ứng. Xây dựng pháp luật là hoạt động quan trọng của nhà nước. Trong đó, xây dựng QPPL hành chính lại càng có ý nghĩa quan trọng vì đây là phương tiện chủ yếu và là cơ sở của quản lí HCNN. Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan HCNN ban hành trên cơ sở cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định của hiến pháp, luật và pháp lệnh trong lĩnh vực quản lí HCNN. Điều 112 Hiến pháp 1992 đã quy định cho Chính phủ trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và UBTVQH. Luật ban hành văn bản QPPL cũng quy định cho các cơ quan HCNN được ban hành văn bản QPPL như: Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Quyết định, Chỉ thị của UBND… Số lượng QPPL hành chính trong các văn bản này là rất lớn. Tóm lại, cơ quan HCNN tham gia xây dựng và ban hành văn bản QPPL nói chung. Cơ quan HCNN là cơ quan có chức năng quản lí HCNN. Do vậy, để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan HCNN cần thiết phải xây dựng và ban hành các QPPL hành chính. Vai trò của cơ quan HCNN trong việc xây dựng QPPL hành chính Cơ quan HCNN đưa ra kiến nghị xây dựng QPPL hành chính Chính phủ tham gia vào việc xây dựng QPPL hành chính ngay từ những khâu đầu tiên, trong hoạt động xây dựng chương trình xây dựng pháp luật. Chính phủ đứng đầu hệ thống cơ quan HCNN, là cơ quan HCNN có thẩm quyền chung ở trung ương. Do đó, Chính phủ tham gia xây dựng QPPL hành chính ngay từ đầu, đưa ra kiến nghị xây dựng QPPL hành chính nói riêng là tất yếu. Chính phủ có trách nhiệm lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình UBTVQH và phát biểu ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các cơ quan khác. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Ta biết rằng, nguồn của luật hành chính là những văn bản QPPL do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất định, có nội dung là các QPPL hành chính. Nguồn của luật hành chính đa dạng, gồm cả luật, pháp lệnh, nghị quyết… những văn bản cơ quan HCNN không có thẩm quyền ban hành nhưng vai trò của cơ quan HCNN đối với việc xây dựng QPPL hành chính trong các văn bản đó không phải là nhỏ. Ví dụ: Trước khi Quốc hội ban hành chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từng năm, Chính phủ đều có đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Năm 2010, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua 48 dự án luật, pháp lệnh. Trong đó, chương trình chính thức gồm 32 dự án luật, 2 dự án pháp lệnh và chương trình chuẩn bị gồm 14 dự án luật. Tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội Khoá XII sắp tới, Chính phủ dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua 11 dự án luật; cho ý kiến vào 11 dự án luật. Đối với các QPPL hành chính do HĐND ban hành, UBND cũng tham gia vào quá trình lập dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết của HĐND. Trên đây, ta đề cập nhiều đến vai trò của cơ quan HCNN trong xây dựng chương trình xây dựng pháp luật nói chung. Tuy nhiên, QPPL hành chính muốn được xây dựng và ban hành cũng phải bắt đầu từ những chương trình xây dựng pháp luật nói chung ấy. Từ đó, ta cũng đã thấy được vai trò của cơ quan HCNN trong việc xây dựng QPPL hành chính ngay từ những bước đầu tiên. Cơ quan HCNN trực tiếp tham gia xây dựng QPPL hành chính Cơ quan HCNN tham gia soạn thảo dự án,dự thảo văn bản QPPL hành chính Trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình và nghị định của Chính phủ thì Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo. Thành phần Ban soạn thảo còn có các thành viên là đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ. Trường hợp dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì chậm nhất là bốn mươi ngày, trước ngày khai mạc phiên họp của UBTVQH, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải gửi hồ sơ dự án, dự thảo đến Chính phủ để Chính phủ tham gia ý kiến. Với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết không do Chính phủ trình, Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, dự thảo. Bộ, cơ quan ngang bộ được Thủ tướng Chính phủ phân công chuẩn bị ý kiến chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp dự kiến những nội dung cần tham gia ý kiến để trình Chính phủ xem xét, quyết định. Các bộ, cơ quan ngang bộ cũng chủ trì soạn thảo dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân công một đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo dự thảo thông tư và xây dựng tờ trình. Như vậy, quá trình soạn thảo QPPL hành chính có sự tham gia của nhiều cơ quan HCNN khác nhau. Tuy nhiên, nhìn nhận cả quá trình ta vẫn thấy được tính hài hoà, thống nhất và tầm vĩ mô, chiến lược của các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau; đảm bảo cho việc thể hiện đúng các quan điểm, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với dự án, dự thảo; đảm bảo thông tin tổng hợp thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau đối với hoạt động xây dựng văn bản QPPL hành chính. Sự kết hợp giữa các cơ quan HCNN trong quá trình soạn thảo mỗi văn bản QPPL hành chính đã giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, giải quyết, xử lý những vấn đề có ý kiến khác nhau ngay trong quá trình soạn thảo; xác định các vấn đề cần ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành (thông tư) thuộc thẩm quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ, các nguyên tắc, phạm vi hướng dẫn để việc hướng dẫn thể hiện đúng các cơ chế, chính sách đã được thể hiện ở các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Trong việc soạn thảo những QPPL hành chính của UBND các cấp thì tuỳ theo tính chất và nội dung của quyết định, chỉ thị, UBND tổ chức việc soạn thảo hoặc phân công cơ quan soạn thảo. Cơ quan HCNN tham gia thẩm định dự án,dự thảo văn bản QPPL hành chính Đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, Hội đồng dân tộc và các Uỷ bạn của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định trách nhiệm thẩm định của cơ quan HCNN. Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Chính phủ. Đối với dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học. Theo khoản 3 Điều 36 Luật ban hành văn bản QPPL 2008, cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định tập trung vào những vấn đề sau đây: - Sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản; - Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; - Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện; - Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết trình Chính phủ. Ngoài ra, còn có thẩm định dự thảo nghị định. Bộ Tư pháp thẩm định dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ. Với dự thảo nghị định có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng thẩm định, gồm đại diện các cơ quan hữu quan, chuyên gia, nhà khoa học. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu lấy ý kiến thẩm định, chỉnh lý dự thảo nghị định trình Chính phủ. Bộ Tư pháp còn phải thẩm định dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công tác quản lý nhà nước, hoạt động thẩm định của cơ quan HCNN đối với các dự án, dự thảo nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Chính phủ đối với công tác xây dựng pháp luật, sự quán triệt thực hiện của các bộ, ngành trong quá trình soạn thảo để các chính sách, quan điểm, cơ chế đó được thể hiện đầy đủ, đồng bộ, thống nhất trong các dự án, dự thảo văn bản. Đồng thời, thông qua hoạt động thẩm định, các vấn đề khác nhau giữa các cơ quan trong quá trình soạn thảo cũng phần nào được xử lí. Có thể khẳng định, hoạt động thẩm định của cơ quan HCNN đối với các dự án, dự thảo văn bản QPPL nói chung cũng như QPPL hành chính nói riêng đã thể hiện khá rõ vai trò của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, xử lý các vấn đề thuộc về chính sách, quan điểm. Đây là những vấn đề hết sức quan trọng, cần được tăng cường nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng “thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ” (theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX). Cơ quan HCNN tham gia chỉnh lý các dự án, dự thảo sau khi đã có ý kiến Đối với dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, Bộ Tư pháp tiếp tục tham gia nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý. Trong trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ triệu tập cuộc họp gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan để giải quyết trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào ý kiến tại cuộc họp này, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo để trình Chính phủ (theo Điều 38 Luật ban hành văn bản QPPL 2008). Trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự thảo nghị định cũng được giải quyết tương tự (theo Điều 65 Luật ban hành văn bản QPPL 2008). Trong hoạt động này, Văn phòng Chính phủ cùng các bộ, ngành liên quan chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản sau khi được Chính phủ thảo luận. Nếu Chính phủ thông qua toàn bộ nội dung thì Văn phòng Chính phủ cùng các cơ quan có liên quan hoàn chỉnh dự thảo, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành hoặc ký trình Quốc hội, UBTVQH. Nếu Chính phủ chưa thông qua, dự án, dự thảo cần phải tiếp tục hoàn chỉnh, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ cùng các cơ quan có liên quan tiếp thu các ý kiến của Chính phủ để hoàn chỉnh dự án, dự thảo, trình Chính phủ xem xét trong thời gian nhất định. Sự tham gia của cơ quan HCNN trong hoạt động này nhằm đảm bảo cho việc tiếp tục thể hiện các ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc hoàn thiện các dự thảo trước khi trình ký và đảm bảo tiến độ hoàn thành dự thảo như đã được đề ra. Tóm lại, cơ quan HCNN tham gia xây dựng QPPL hành chính ở các giai đoạn khác nhau và với các tư cách khác nhau (chủ trì, phối hợp, tham gia trực tiếp, thẩm định với tư cách độc lập), qua đó thể hiện vai trò quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật hành chính nói riêng. II/ Vai trò của cơ quan HCNN trong việc thực hiện QPPL hành chính Pháp luật là một công cụ quản lí xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Cũng như vậy, muốn QPPL hành chính phát huy được chức năng quản lí HCNN thì cần phải có hoạt động thực hiện QPPL hành chính dưới các hình thức khác nhau. Cơ quan HCNN là cơ quan có chức năng quản lí HCNN, do đó, vai trò của các cơ quan này trong việc thực hiện QPPL hành chính là rất quang trọng. Cơ quan HCNN thực hiện QPPL hành chính và tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện QPPL hành chính Cơ quan HCNN là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật. Muốn các cá nhân, tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và QPPL hành chính nói riêng thì cơ quan HCNN phải tạo điều kiện thuận lợi, không được gây khó dễ để các cá nhân, tổ chức đó có thể thực hiện pháp luật một cách dễ dàng. Ví dụ: Pháp luật quy định về việc công dân đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã. Công dân thực hiện đúng quy định đó là đã thực hiện pháp luật hành chính. UBND cấp xã đó có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để công dân đến đăng kí kết hôn được dễ dàng, nhanh chóng theo đúng thủ tục pháp luật quy định. Việc thực hiện chương trình cải cách hành chính (với các nội dung: Cải cách thể chế hành chính; cải cách tổ chức bộ máy HCNN; xây dựng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công) cũng là một hoạt động của cơ quan HCNN để tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thực hiện QPPL hành chính. Chương trình cải cách hành chính đã tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, ban, ngành, giảm phiền hà cho người dân, tạo điều kiện thu hút đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Một số lượng rất lớn QPPL hành chính là do cơ quan HCNN xây dựng và ban hành. Chính vì vậy, việc cơ quan HCNN tạo điều kiện để người dân có thể thực hiện được các QPPL hành chính là điều tất yếu. Có như vậy, pháp luật mới có thể đi vào đời sống, gắn liền với thực tiễn, phát huy tác dụng, tránh tình trạng pháp luật “suông”. Bên cạnh đó, cơ quan HCNN là chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật hành chính, cũng phải thực hiện các QPPL hành chính. Hiến pháp và các văn bản QPPL khác đã quy định cho cơ quan HCNN có nhiệm vụ, quyền hạn nào thì cơ quan HCNN phải và chỉ được thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó, quán triệt tư tưởng người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, quyền lực công chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Việc cơ quan HCNN thực hiện nghiêm chỉnh QPPL hành chính vừa tạo được tác động tốt tới ý thức pháp luật của người dân, vừa tạo cơ sở pháp lý để người dân thực hiện đúng đắn những quyền và nghĩa vụ của mình. Cơ quan HCNN tham gia hoạt động giáo dục pháp luật nói chung, QPPL hành chính nói riêng Hiểu luật, thực hiện đúng luật đang là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Để QPPL hành chính được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, công tác giao dục pháp luật là một phần không thể thiếu. Công dân, cán bộ, công chức nhà nước, tổ chức xã hội…, tất cả đều cần phải hiểu mình có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nào, hiểu được pháp luật yêu cầu phải xử sự như thế nào trong những trường hợp đã được dự liệu… Có như vậy, các cá nhân, tổ chức mới có thể thực hiện pháp luật đầy đủ và đúng đắn. Cơ quan HCNN tham gia tích cực vào hoạt động giáo dục pháp luật nói chung, QPPL hành chính nói riêng. Bộ Tư pháp đã xây dựng trang thông tin phổ biến giáo dục pháp luật tại địa chỉ Chính phủ đề ra chương trình phổ biến giáo dục pháp luật trong từng giai đoạn. Ngoài ra còn có rất nhiều văn bản về phổ biến giáo dục pháp luật do cơ quan HCNN ban hành như Thông tư liên tịch về tủ sách pháp luật do Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành ngày 7/6/2006; Quyết định 28/2006/QĐ-TTg ngày 28/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các đề án chi tiết thuộc Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn… Cơ quan HCNN còn tổ chức kiểm tra việc thực hiện QPPL hành chính Cơ quan HCNN đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện QPPL hành chính và giáo dục pháp luật. Nhưng để việc thực hiện pháp luật đem lại hiệu quả cao, cơ quan HCNN còn có vai trò tích cực trong hoạt động kiểm tra việc thực hiện QPPL hành chính. Kiểm tra là phương tiện quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lí những vi phạm pháp luật. Kiểm tra được thực hiện trước hết bởi Chính phủ và UBND các cấp. Ngoài ra, kiểm tra còn được thực hiện thường xuyên bởi cơ quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn thông qua các cơ quan thanh tra ngành. Trong phạm vi quyền hạn do luật quy định, các bộ có quyền kiểm tra UBND các cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác thược ngành, lĩnh vực và có quyền đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quy định của UBND và Chủ tịch UBND nếu những quy định này trái với các văn bản của bộ về ngành hoặc lĩnh vực mà nó phụ trách. Thông qua hoạt động kiểm tra, các chủ thể có dịp tìm hiểu việc thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật hành chính nói riêng của cấp dưới cũng như việc thực hiện các quy định của cơ quan và các nhiệm vụ đã được giao, từ đó các chủ thể quản lí có biện pháp xử lí thích hợp nhằm giáo dục đối tượng quản lí, xử lí người vi phạm đồng thời cải tiến và sửa đổi, bổ sung các quy định quản lí. Tóm lại, cơ quan HCNN tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật hành chính, giáo dục, kiểm tra việc thực hiện QPPL hành chính. Thiếu đi một hoạt động nào cũng sẽ khiến cho việc thực hiện pháp luật sẽ gặp khó khăn, thậm chí ngưng trệ. Từ đó, ta đã thấy được vai trò của cơ quan HCNN trong việc thực hiện QPPL hành chính là rất quan trọng. Lời kết Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước. Đã là bộ phận của bộ máy nhà nước, chắc chắn cơ quan hành chính nhà nước dù là Chính phủ hay UBND cấp xã cũng đều có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Để thực hiện chắc năng quản lí hành chính nhà nước của mình, các cơ quan này có thẩm quyền lập quy, trong đó có quy phạm pháp luật hành