Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp
phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của
mình. Vậy, ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực,
khách quan, góp phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc
này, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin
cậy của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm
của các tổ chức Định mức tín nhiệm (ĐMTN).
Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào
có khả năng đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm
ảnh hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do
khiến các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt
Nam. Tất nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa
còn non yếu thì hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy
hết năng lực của nó để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra
đời sẽ thúc đẩy cho sự lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM
hoạt động tốt hơn, huy động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất. Chính vì
thế nên khi thực hiện chuyên đề em đã chọn đề tài:“Vai trò của Định mức tín
nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”.
22 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thốngngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chon đề tài:
Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp
phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của
mình. Vậy, ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực,
khách quan, góp phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc
này, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin
cậy của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm
của các tổ chức Định mức tín nhiệm (ĐMTN).
Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào
có khả năng đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm
ảnh hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do
khiến các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt
Nam. Tất nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa
còn non yếu thì hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy
hết năng lực của nó để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra
đời sẽ thúc đẩy cho sự lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM
hoạt động tốt hơn, huy động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất. Chính vì
thế nên khi thực hiện chuyên đề em đã chọn đề tài:“Vai trò của Định mức tín
nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của chuyên đề là tổng quan cơ sở lý luận về vai trò của định mức tín
nhiệm đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại .
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chuyên đề là khái quát hoá lý luận về vai trò của
định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại .
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
2.1. Một số khái niệm:
Định mức tín nhiệm:
Định mức tín nhiệm (ĐMTN) được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền
với một khoảng đầu tư nào đó. ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn vị
phát hành trong việc thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính. Nghĩa
vụ tài chính gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, các khoản nợ và các khoản tiền
vay ngân hàng [1].
Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu và ĐMTN
của đơn vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến đợt phát hành vì
nó không chỉ tính tới độ tín nhiệm của đơn vị phát hành mà còn tính tới độ tín nhiệm
của những tài sản thế chấp.
Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức ĐMTN trong
nước sẽ ĐMTN các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, các tổ chức ĐMTN
quốc tế sẽ định mức những đơn vị phát hành trên toàn cầu phục vụ cho các nhà đầu
tư lớn.
Hệ số tín nhiệm:
Theo Bohn John, hệ số tín nhiệm (HSTN) là sự đánh giá về khả nâng một nhà
phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ
trong suốt thời gian tồn tại của nó [1].
Theo công ty chứng khoán Merrill Luynch (Mỹ), HSTN là đánh giá hiện thời
của công ty xếp hạng tín nhiệm về chất lượngtín dụng của một nhà phát hành chứng
khoán nợ về một khoản nợ nhất định [1].
Theo công ty Moodys, HSTN thể hiện khả năng sẵn sàng thanh toán đúng
hạn của một nhà phát hành cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời gian tồn tại
của khoản nợ đó [1].
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Như vậy, ta có thể hiểu khái quát, HSTN là sự đánh giá hiện thời về mức độ
sẵn sàng và khả năng trả gốc và lãi đối với những khoản nợ của một nhà phát hành
trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó.
Cần lưu ý rằng, về mặt nào đó, HSTN có thể được xem là hình thức tư vấn đầu
tư chứng khoán. Song đây không hoàn toàn là lời khuyên mua hay bán bất kì loại
chứng khoán nào. HSTN được ấn định cho nhà phát hành, nó luôn gắn với một
khoản nợ nhất định của nhà phát hành đó. Hầu hết các loại chứng khoán đều được
xếp hạng tín nhiệm (XHTN) như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, các loại
trái phiếu, kì phiếu ngân hàng. Hiện nay, một số nước còn XHTN cả cổ phiếu ưu
đãi, cổ phiếu thường, các đối tượng vay vốn ngân hàng.
Bảng kí hiệu hệ số tín nhiệm:
Để tạo điều kiện cho việc sử dụng hệ thống XHTN, các công ty xác định
HSTN đã đưa ra hệ thống các kí hiệu. Bảng XHTN được xắp sếp theo thứ tự giảm
dần về độ an toàn hay tăng dần về độ rủi ro. Thông thường, bảng XHTN được chia
thành hai loại: bảng XHTN biểu hiện cho các công cụ nợ ngắn hạn và bảng XHTN
các cộng cụ nợ dài hạn. Hệ thống XHTN tiêu biểu nhất hiện nay là hệ thống kí hiệu
của hai công ty XHTN hàng đầu thế giới Moodys và Standard&Poor’s (S&P), được
xây dựng trên cơ sở khung kí hiệu do John Moodys sáng tạo và trở thành tiêu chuẩn
để xây dựng hệ hống kí hiệu XHTN của hầu hết các công ty trên thế giới [1].
Bảng 1: Bảng xếp hạng tín nhiệm công cụ nợ ngắn hạn của S&P:
Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Bảng 2: Bảng xếp hạng tín nhiệm công cụ nợ dài hạn của S&P:
Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội.
Tác dụng của xếp hạng tín nhiệm:
- Đối với nhà đầu tư:
+ XHTN là một chỉ tiêu rõ ràng, đơn giản và dễ hiểu để em xét quyết định
đầu tư.
+ Là nhân tố quan trọng trong việc đánh giá mối quan hệ rủi ro và lợi nhuận
thu được.
+ Là công cụ quản lý danh mục đầu tư…
- Đối với nhà phát hành (NPH):
+ Giúp người phát hành mở rộng thị trường tiêu thụ trên hai khía cạnh: có
thể tham gia vào nhiều thị trường vốn khác nhauvà mở rộng các nhà đầu tư tiềm
năng.
+ Duy trì sự ổn định của thị trường, nâng cao tính minh bạch hiệu quả, tăng
tính thanh khoản của thị trường, giảm chi phí vay vốn.
- Đối với các cơ quan quản lý thị trương chứng khoán:
XHTN cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định của chính phủ.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
2.2. Công ty định mức tín nhiệm – Credit Rating Agence:
2.2.1. Khái niệm:
Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN, còn được gọi là Credit Rating
Agence (CRA) là công ty chuyên cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một
doanh nghiệp (DN) trong nghĩa vụ thanh toán tài chính [1].
CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét, phân tích và
đưa ra mức định hạng tín nhiệm đối với các công ty đang tìm kiếm nguồn vốn đầu
tư. Nó cung cấp ý kiến về mức độ tin cậy của một thể nhân cũng như khả năng hoàn
thành những nghĩa vụ tài chính của thể nhân đó.
Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng
các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ,… Giúp các nhà đầu tư có cơ
sở để tham khảo và so sánh trước khi đưa ra quyết định nên đầu tư vào những công
cụ nào.
Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ chức tài
chính, bảo hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho vay của NH, đánh
giá xếp hạng quản trị DN, cung cấp thông tin tài chính,...
2.2.2. Sự khác biệt giữa CRA và một số tổ chức khác nhu tƣ vấn tài chính,
công ty kiểm toán, ISO, …
Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì chúng đều
nhằm hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các thông tin tư vấn kịp thời cho
các DN.
Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích theo góc độ
tài chính như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các chỉ tiêu phi tài chính.
Các chỉ tiêu phi tài chính đó là năng lực cạnh tranh của DN, triển vọng phát triển
của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng của người tiêu dùng về các
sản phẩm và dịch vụ của DN,… Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân
tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô [1].
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
2.2.3. Các mô hình của CRA:
Trên thế giới, hiện có ba loại mô hình CRA [1]:
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài.
Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động dưới dạng
mở chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường
chỉ có một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài. Để mô
hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển
nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế.
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết lập liên
doanh để khai thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác
trong nước phải là một tổ chức tài chính hoặc một DN đã rất am hiểu về hoạt động
của CRA mới phát huy được vai trò của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi
phối.
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến
lược nước ngoài.
Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó
ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước
ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển
giao công nghệ, đào tạo nhân sự và cử người điều hành DN. Trong mô hình này
không có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở
hữu. Nguyên tắc phân bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư
trong việc hình thành sự ra đời và hoạt động của CRA.
2.3. Các hình thức của định mức tín nhiệm:
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hoạt
động của các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau.
Về cơ bản, có ba loại hình dịch vụ chính [1]:
2.3.1. Cung cấp thông tin tín nhiệm:
● Thông tin tín nhiệm DN:
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được kiểm chứng
bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm đánh giá khả năng
thanh toán, mức độ tín nhiệm của một cá nhân, một DN, một nghành hoặc một quốc
gia. Thông tin tín nhiệm DN giúp các nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính
xác hơn nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN:
Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên ĐMTN các
công ty có yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công
ty. Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo
sát các công ty và nghành những sự kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh
hưởng tới kết quả định mức nhằm đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít
nhất một năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt
quá trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại công bố:
Cảnh bảo tín nhiệm:
Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó hoặc là về
điều kiện kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có thể ảnh hưởng đến
ĐMTN. Cảnh báo tín nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh giá các sự kiện và các sự kiện
này có thể được cho rằng “tích cực”, “tiêu cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc
vào các tình huống cụ thể. ĐMTN hiện thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn
thành đánh giá đầy đủ.
Cập nhật tín nhiệm:
Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được công bố sau
khi CRA đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý nghĩa và nó bao gồm
những thông tin bổ sung cho ĐMTN đã công bố trước đó. Cập nhật ĐMTN và công
bố ĐMTN sẽ “thăng hạng”, “xuống hạng” hoặc bị hủy bỏ.
2.3.2. Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp:
Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín nhiệm
DN. Đánh giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới. Ở hầu hết các
nước phát triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
động trong lĩnh vực này. Đây là một dịch vụ hết sức cần thiết đối với nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là đối với các NH.
Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm là việc đánh giá khả năng đáp
ứng các nghĩa vụ nợ của một NPH, đánh giá mức độ rủi ro các công nợ như dưới
dạng các chứng khoán như trái phiếu nhà nước, trái phiếu công ty, thương phiếu…
Xếp hạng DN là một phần của quá trình cung cấp thông tin tín nhiệm thông
qua các khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích, đánh giá, so sánh và cho điểm
các thông tin tín nhiệm để xếp hạng các NPH theo các cấp độ khác nhau. Mục đích
của việc xếp hạng là đưa ra ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của
NPH vì các NPH thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các
nhà đầu tư, các ngân hàng hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất
cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của ngân hàng.
Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, NPH sẽ được nhận những thông tin đánh
giá độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán nợ. Mặt khác,
các NPH còn nhận được dich vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng
(PR),…Tuy nhiên, để có thể đánh giá tín nhiệm của một DN, các CRA phải dựa trên
hai chỉ tiêu là tài chính và phi tài chính. Có hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các
phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA,
BB,… cho mức độ tín nhiệm của DN.
Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng thanh toán,
tín dụng, thua lỗ, các chỉ số tài chính,… Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những
thông tin liên quan tới giám đốc, ISO, thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy
tín trên thương trường,…
2.3.2.1. Xếp hạng tín nhiệm quốc gia:
Khi xem xét XHTN cho một quốc gia, thường chia rủi ro thành hai loại chính
là: rủi ro chính trị và rủi ro kinh tế
- Rủi ro chính trị: Là đánh giá các nhân tố Chính trị và xã hội có tác động
đến hoạt động ngoại thương và khả năng trả nợ của một quốc gia. Các khía cạnh
xem xét gồm: hệ thống chính trị, môi trường xã hội, chính phủ, quan hệ đối ngoại.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
- Rủi ro kinh tế: thường xem xét trên các khía cạnh như: sự ổn định của
kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, chính sách tỷ giá, chính sách kinh tế, cán cân
thanh toán quốc tế.
2.3.2.2. Xếp hạng tín nhiệm công ty:
XHTN cho các công ty theo quan điểm của các tổ chức XHTN là xếp hạng nợ
cho các NPH thuộc lĩnh vực công nghiệp (và tất cả các NPH khác) không thể cao
hơn mức độ tín nhiệm quốc gia, nơi NPH đặt trụ sở chính.
Việc đánh giá khả năng trả nợ của công ty dựa trên việc đánh giá các yếu tố
sau: xu hướng phát triển của ngành và quốc gia, chất lượng quản lý, hoạt động kinh
doanh và vị thế của công ty, tình trạng tài chính và nguồn thanh toán, cơ cấu công
ty, thỏa thuận trợ giúp của công ty mẹ (nếu có), rủi ro sự kiện đặc biệt.
2.3.2.3. Xếp hạng tín nhiệm ngân hàng:
XHTN của các ngân hàng thương mại thường xem xét trên các khía cạnh sau:
- Môi trường hoạt động: xu hướng cạnh tranh của ngân hàng trong nước,
môi trường pháp lý, vai trò của ngân hàng đối với hệ thống tài chính trong nước,
mối quan hệ giữa ngân hàng với cơ quan pháp luật.
- Các nhân tố kinh doanh cơ bản của tổ chức ngân hàng. Vấn đề cơ bản trong
phân tích là đánh giá bản thân ngân hàng thông qua việc sử dụng các chỉ tiêu và
nguyên tắc CAMEL trên các mặt sau: chất lưưọng tài sản, chất lượng quản lý, khả
năng lợi nhuận và vấn đề thanh toán.
2.4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN :
Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách quan, độc
lập, minh bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn này do NH Thanh
toán quốc tế đề ra và đã được các nhà đầu tư trên thế giới thừa nhận [1].
Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh giá mức độ
tín nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các CRA là các nhà đầu tư
chứ không phải các DN hay các nhà phát hành mặc dù họ là người trả phí dịch vụ
ĐMTN. Vì vậy mà yêu cầu đối với tổ chức này là khá khắt khe.
Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là mình không
chịu sức ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối trong các qui định
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
được đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào, không xung đột hay có mối quan hệ lợi ích
với các tổ chức được ĐMTN. Có như vậy các đánh giá tín nhiệm mới mang tính
khách quan và đáng tin cậy. Đó cũng là nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA.
Ngoài ra, các CRA phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc
xây dựng một qui trình đánh giá khoa học, khách quan và chính xác, phù hợp với
từng điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng phải được thực hiện bởi một
đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực tài chính và phi tài chính. Từ việc thu thập thông
tin đến việc kiểm tra, thẩm định phải được tiến hành một cách đầy đủ, chính xác và
được đánh giá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại, điều kiện để một tổ chức ĐMTN hoạt động thành công là được tin
cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số
lượng lẫn chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức
được định mức và tạo dựng được hình ảnh của mình trong cộng đồng DN.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 3
VAI TRÒ CỦA ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM.
3.1. Sự cần thiết của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của các NHTM.
Hiểu biết và quản lý rủi ro là chìa khóa để dẫn đến thành công của NH. Đối
với một khoảng lợi tức tiềm năng đều có sự rủi ro tương ứng. Cho đến nay, rủi ro
tín dụng là rủi ro chính yếu nhất, nó chiếm đến 80% tổng rủi ro mà NH phải gánh
chịu. Lịch sử đã cho thấy nhiều NH thất bại vì không hiểu chính chắn về khách
hàng của mình. Vì vậy, việc phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá, xếp loại
DN được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu của các NHTM Việt Nam hiện nay [4].
Ở các nước trên thế giới, một trong những kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng
của NH là phương thức sử dụng kỹ thuật phân tích để xét duyệt khả năng và uy tín
về mặt tín dụng của khách hàng một cách thường xuyên. Nếu khách hàng được sự
tín nhiệm tín dụng cao thì được vay nhiều hơn. Đó là tiến trình xét duyệt tín dụng.
Các NH sẽ đưa ra các chỉ tiêu và kèm theo các thang điểm cơ bản để đánh giá, xếp
loại tín dụng theo A, B, C,… và các thông tin tín dụng của NHTW để cho các NH
tham khảo. Các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chưa làm tốt các khâu này.
Trong xu thế cạnh tranh và hội nhập tạo nên thời cơ và thách thức mới, đối
với hệ thống NHTM Việt Nam cần phải có sự đột phá vững mạnh, đổi mới công
nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhằm ngăn ngừa và hạn chế
rủi ro, giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn hiện nay tại các NH còn khá cao. Các NH cần thận
trọng, am hiểu rõ khách hàng của mình là người đang kinh doanh như thế nào. Vì
vậy, việc phân tích tài chính, xếp loại DN là kỹ thuật nghiệp vụ không thể thiếu
được trong hoạt động tín dụng NH và đóng vai trò trong việc quyết định chất lượng
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
tín dụng NH, cho phép NH chủ động lựa chọn tín dụng NH và xây dựng chính sách
tín dụng hợp lý hơn.
Tuy nhiên, với trình độ chuyên môn và khả năng am hiểu khách hàng, phân
tích kinh tế cũng như thẩm định dự án của khách hàng trong các NHTM Việt nam
hiện nay còn rất yếu kém, vì vậy sự ra đời của một tổ chức ĐMTN hoạt động độc
lập và chuyên nghiệp là rất cần thiết cho hệ thống NHTM Việt Nam ta [4].
3.2. Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của các NHTM :
Trong một nền kinh tế, nếu vốn luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì
các hoạt động kinh tế thì sự tồn tại của các NH lại được coi là điều kiện cần thiết
cho việc lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Vì thế, việc tổ chức và đảm bảo s