Đề tài Vai trò của hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975

Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương tổ chức vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hậu phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu phương, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng. Ngược lại, việc xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến. Như chúng ta đã biết, sau hiệp định Giơnevơ đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đang tiến hành cách mạng XHCH và xây dựng CNXH. Đó là một chuyển biến cực kì trọng yếu quyết định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong khi đó, Miền Nam nước ta còn bị đặt dưới ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai Ngô Đình Diệm, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn thành. Nằm trong nhiệm vụ chiến lược chung của cả dân tộc – nhằm chấm dứt tình trạng dất nước bị chia cắt, Đảng đã xác định Miền Bắc là hậu phương lớn và Miền Nam là tiền tuyến lớn. Miền Bắc tiến lên CNXH, thực hiện cải tạo CNXH và bước đầu phát triển kinh tế, xã hội, làm cơ sở tiền đề vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển. Miền Bắc –hậu phương lớn, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì thế, Miền Bắc phải có mối quan hệ gắn bó, phối hợp với miền Nam tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi chung cho cách mạng hai miền. Ngay sau khi hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương được kí (7/1954), Mĩ đã tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt (1960 – 1965), chiến tranh cục bộ (1965 – 1968). Đến năm 1968, khi bước vào Nhà Trắng, Nichxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên mình – “Học thuyết Nichxơn”, Học thuyết này thực hiện đầu tiên ở miền Nam Việt Nam với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong khi đó, ở Miền Nam lúc này quân và dân ta gặp không ít khó khăn về vũ khí, lương thực thực phẩm, lực lượng chiến đấu. Để giữ vững và phát triển phong trào tấn công địch Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định: xây dựng miền Bắc thật sự “vững mạnh và tiến bộ”, “thiết thực chiếu cố miền Nam”, “là nền tảng là gốc rễ của lực lượng đấu tranh”,“Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải củng cố”, “Muốn thực hiện cương lĩnh của Mặt Trận, thì chúng ta phải ra sức cũng cố Miền Bắc về mọi mặt, .Nền có vững, nhà mới chắc, gốc có mạnh, cây mới tốt”. Thực hiện chủ trương chi viện lực lượng, vật chất cho miền Nam, ngay từ tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập đoàn vận tải trên biển Đông, đặt tên là Đoàn 759. Bộ Chính trị cũng quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển (sau này là tuyến đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển)để vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa cán bộ, bộ đội, chuyển công văn, tài liệu đi lại giữa hai miền. Như vậy, ngay từ đầu Đảng và nhà nước đã nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò quyết định của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Đây là một đường lối hoàn toàn đúng đắn của Đảng.

doc5 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 10107 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương tổ chức vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hậu phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu phương, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng. Ngược lại, việc xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến. Như chúng ta đã biết, sau hiệp định Giơnevơ đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đang tiến hành cách mạng XHCH và xây dựng CNXH. Đó là một chuyển biến cực kì trọng yếu quyết định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong khi đó, Miền Nam nước ta còn bị đặt dưới ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai Ngô Đình Diệm, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn thành. Nằm trong nhiệm vụ chiến lược chung của cả dân tộc – nhằm chấm dứt tình trạng dất nước bị chia cắt, Đảng đã xác định Miền Bắc là hậu phương lớn và Miền Nam là tiền tuyến lớn. Miền Bắc tiến lên CNXH, thực hiện cải tạo CNXH và bước đầu phát triển kinh tế, xã hội, làm cơ sở tiền đề vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển. Miền Bắc –hậu phương lớn, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì thế, Miền Bắc phải có mối quan hệ gắn bó, phối hợp với miền Nam tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi chung cho cách mạng hai miền. Ngay sau khi hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương được kí (7/1954), Mĩ đã tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt (1960 – 1965), chiến tranh cục bộ (1965 – 1968). Đến năm 1968, khi bước vào Nhà Trắng, Nichxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên mình – “Học thuyết Nichxơn”, Học thuyết này thực hiện đầu tiên ở miền Nam Việt Nam với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong khi đó, ở Miền Nam lúc này quân và dân ta gặp không ít khó khăn về vũ khí, lương thực thực phẩm, lực lượng chiến đấu... Để giữ vững và phát triển phong trào tấn công địch Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định: xây dựng miền Bắc thật sự “vững mạnh và tiến bộ”, “thiết thực chiếu cố miền Nam”, “là nền tảng là gốc rễ của lực lượng đấu tranh”,“Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải củng cố”, “Muốn thực hiện cương lĩnh của Mặt Trận, thì chúng ta phải ra sức cũng cố Miền Bắc về mọi mặt, ….Nền có vững, nhà mới chắc, gốc có mạnh, cây mới tốt”. Thực hiện chủ trương chi viện lực lượng, vật chất cho miền Nam, ngay từ tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập đoàn vận tải trên biển Đông, đặt tên là Đoàn 759. Bộ Chính trị cũng quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển (sau này là tuyến đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển)để vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa cán bộ, bộ đội, chuyển công văn, tài liệu đi lại giữa hai miền. Như vậy, ngay từ đầu Đảng và nhà nước đã nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò quyết định của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Đây là một đường lối hoàn toàn đúng đắn của Đảng. Từ khi hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ở miền Bắc đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành cải tạo ruộng đất, kết thúc thắng lợi thời kì khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và hăng hái thi đua ra sức thực hiện kế hoạch nhà nước “3 năm”, “5 năm”, cải tạo kinh tế, phát triển kinh tế, văn hoá, văn hoá… để nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân và hơn hết làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam, cùng miền Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc từ đó làm cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc khẩn trương tổ chức động viên sức người, sức của nhằm chi viện nhanh chóng, kịp thời, liên tục đáp ứng yêu cầu của chiến trường miền Nam trong các cuộc tiến công và nổi dậy.Công tác động viên lực lượng ở miền Bắc được thực hiện trên quy mô lớn nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh chiến đấu cho quân đội, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân số cho chiến trường miền Nam. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chí Minh “Mỗi người làm việc bằng hai”, “vì miền Nam ruột thịt” nhân dân miền Bắc từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, đã hăng hái thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng, chi viện cao nhất cho đồng bào và chiến sĩ Miền Nam. Khẩu hiệu “Tay cày tay súng” với các phong trào thi đua như “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp, “Cờ Ba Nhất” trong lực lượng vũ trang, “Hai tốt” trong trường học, “Thầy thuốc như mẹ hiền” trong ngành y tế, “Ba cải tiến” trong các cơ quan, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Ba sẵn sàng” trong thanh niên…phát triển rộng khắp, trở thành cao trào. “Trong 15 năm qua Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới” (Hồ Chí Minh). Miền Bắc đã tạo cơ sở mới về chính trị, kinh tế, quốc phòng để chi viện lực lượng và vật chất cho miền Nam. Với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh cùng với sự hậu thuẫn của quốc tế Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, tạo tiền đề cho cách mạng miền Nam Việt Nam chuyển hướng, giúp miền Nam vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ vững trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta cũng cố và nâng cao quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhận thấy vai trò của hậu phương lớn miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, đế quốc Mĩ đã hai lần tiến hành chiến tranh phá hoại với quy mô lớn, với mức độ đánh phá ác liệt đối với Miền Bắc và đối với tuyến giao thông vận tải chiến lược hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với miền Nam. Mĩ muốn phá hoại tận gốc tiềm lực quân sự kinh tế của Việt Nam, “kéo lùi miền Bắc Việt Nam trở lại thời kì đồ đá”, làm cho ta không còn khả năng chiến đấu. Miền Bắc đã tập trung lớn khả năng về lực lượng, phương tiện để khắc phục tại chổ và kịp thời hậu quả của chiến tranh, vượt qua vòng vay phong tỏa của địch để tiếp nhận tốt hàng viện trợ của bên ngoài và tiếp viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ đến đỉnh cao và hết sức ác liệt vẫn không ngăn được miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương. Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khói lửa chiến tranh; duy trì, phát triển tiềm lực về mọi mặt, tiếp tục tăng cường lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời về cơ bản vẫn giữ vững đời sống nhân dân hậu phương ổn định, đảm bảo càng đánh càng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã động viên hàng triệu lao động, mở rộng lực lượng vũ trang và phục vụ chiến đấu. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4 đến 5 lần so với trước. Nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành trực tiếp phục vụ chiến tranh cũng tăng lên rất lớn. Nhân lực động viên đến cuối năm 1972 cần tới trên 2 triệu người, chiếm khoảng 30% lao động xã hội miền Bắc, trong đó 70% là nam giới. Tỉ lệ tuyển quân ở xã cao nhất là trên 10% dân số; 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường. Trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm 63% trong số lao động sản xuất trực tiếp. Giai đoạn 1973 – 1975: 50% số quân bộ đội tập trung ở miền Nam là lực lượng do miền Bắc tăng cường. Hai năm 1973-1974, miền Bắc tiếp tục động viên 25 vạn thanh niên vào lực lượng vũ trang, bổ sung cho chiến trường 15 vạn quân; chuyển hàng vạn thương binh, bệnh binh từ các chiến trường về điều trị và giải quyết nhanh chính sách. Năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực Miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động xã hội ở miền Bắc, 60 – 65% số đó vào lực lượng vũ trang. Trên 80% quân số, 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 là do miền Bắc đưa vào. Về vật chất: phần lớn vũ khí, thiết bị chiến tranh, lương thực, thuốc men… phục vụ công tác chiến đấu và ổn định vùng giải phóng ở miền Nam là do miền Bắc chi viện. Miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất phương tiện kĩ thuật do nước ngoài viện trợ chuyển vào Miền Nam bằng mọi cách có thể. Trong những năm 1965 – 1968, miền Bắc đã tổ chức vận chuyển vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 10 lần so với những năm 1961 – 1964. Trong năm 1970, lắp đặt đường ống dẫn xăng từ miền Bắc vào miền Nam dài 500km, đến cuối năm 1971 nâng lên gần 1000km. Nhờ tuyến dường ống, mùa khô năm 1070.1971, Miền Bắc đã chuyển vào chiến trường khối lượng xăng dầu gấp 10 lần mùa khô 1969 – 1970. Ngày cũng như đêm, trên mọi nẻo đường từ hậu phương đến tiền tuyến, hàng chục vạn nhân dân và bộ đội sát cánh đánh địch, mở đường và vận chuyển với tinh thần anh dũng, bền bỉ, thông minh và sáng tạo vô song; đảm bảo cho chiến trường đủ súng, đủ đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng. Các tuyến đường chiến luợc: Trường Sơn, Hồ Chí Minh trên biển… đã góp phần phát huy sức mạnh của miền Bắc XHCH bằng nhân tố quyết định nhất, kết hợp với sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam – nhân tố quyết định trực tiếp, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn của cả nước, của dân tộc để đưa kháng chiến chống Mĩ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Đường Trường Sơn, đương Hồ Chí Minh là địa bàn chiến lược vững chắc nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, nó là biểu hiện sự liên minh chiến đấu tiêu biểu cho chủ nghĩa dân tộc trở thành một phương hướng chiến lược quan trọng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành huyền thoại bất tử, gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Số hàng do tuyến vận tải đường biển giao cho tiền tuyến lớn Miền Nam tuy không nhiều và bị tổn thất, nhưng có ý nghĩa rất lớn. Số lượng trên có thể còn nhiều, nhiều hơn nữa, chưa tính những thiệt hại do bị quân địch phát hiện, hàng trăm con thuyền phải tự chiềm xuống đấy đại dương để khỏi bị địch phát hiện, con số thống kê này không nói lên điều gì khác ngoài việc chứng minh vai trò quyết định của hậu phương miền lớn Miền Bắc đối với tiền tuyến lớn Miền Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trên nền tảng chế độ xã hội mới được xây dựng trong 10 năm hòa bình (1954 – 1964) được cũng cố và bảo vệ vững chắc trong 10 năm chiến tranh (1965 – 1975), Đảng và nhà nước đã ban hành và thực hiện các biện pháp nhằm làm cho Miền Bắc phát huy đầy đủ, liên tục vai trò tác dụng có ý nghĩa quyết định đối với cộng kháng chiến chống Mĩ.Miền Bắc với khẩu hiệu: “Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Một thân không thể chia đôi/Lửa gươm không thể cắt rời núi song”… đã cũng cố niền tin và nâng cao quyết tâm chiến đấu cho nhân dân miền Nam đấu tranh đánh bại mọi chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mĩ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, kí Hiệp định Pari, tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975. Như vậy, có thể kết luận lại rằng: Bên cạnh hậu phương tại chổ: vùng giải phóng và căn cứ vững chắc, "căn cứ lõm", các "cơ sở" ở sâu trong vùng địch, "căn cứ trong lòng nhân dân", hậu phương Miền Bắc là một hậu phương lớn phục vụ đắm lực cho công cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược ở tuyền tuyến lớn Miên Nam. Lực lượng và vật chất là những nhân tố chiến lược quan trọng trong chiến tranh đã được hậu phương lớn Miền Bắc đáp ứng kịp thời, đầy đủ và liên tục. Nhờ vậy mà lực lượng chiến đấu được khôi phục, thế trận của cách mạng cũng được lấy lại. Mỗi bước ngoặt của chiến tranh, phong trào cách mạng ở Miền Nam gặp không ít khó khăn, nhưng có hậu phương lớn chi viện và chia sẽ đã làm cho cách mạng ở miền Nam phát triển và có bước nhảy vọt. Sự lớn mạnh không ngừng của Miền Bắc không những nâng cao lòng tin tưởng và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào yêu nước ở Miền Nam mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng. Nhìn lại lịch sử ta có thể khẳng định rằng: Miền bắc là hậu phương lớn mà không thể phân biệt đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương. Cả dân tộc đã kết thành một khối vì khát vọng hòa bình và độc lập, tự do. Không giống như mọi hậu phương của chiến tranh mà chúng ta đã thấy, hậu phương Miền Bắc vừa xây dựng, vừa tích lũy, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa chiến đấu bảo về hậu phương vừa cùng miền Nam chiến đấu chống Mĩ xâm lược. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn là chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới. Miền Băc là chổ dựa vững chắc cho cách mạng Miền Nam, đặc biệt những thời kì cách miền Nam bị tổn thất nặng nề. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc không ngừng tăng cường sức mạnh cho miền Nam, quân và dân miền Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân hiếm có trong lịch sử các cuộc chiến tranh, với một nền nghệ thuật quân sự rất sáng tạo và có hiệu lực lớn. Đánh bại các bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mĩ, làm thất bại các mục tiêu chiến lược chủ yếu của cuộc chiến tranh của Mĩ, quân và dân hậu phương Miền Bắc đã góp phần rất quan trọng cùng tiền tuyến lớn miền Nam đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Vai trò của miền Bắc XHCN trong cuộc chống Mỹ, cứu nước được Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc XHCN suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước”. NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO Về đại thắng mùa xuân năm 1975,Bộ nội vụ các cục văn thư và lưu trữ nhà nước trung tâm lưu trữ quốc gia II, NXB Chính trị Quốc Gia, Năm 2009 Đại cương lịch sử Việt Nam, Trương Hữu Quýnh, NXB Giáo dục, Năm 2003. Đại cương lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo dục, Năm 2003. Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay : Giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng sư phạm, Trần Bá Đệ, NXB Giáo dục, Năm 2002. Tiến trình lịch sử Việt Nam/ Nguyễn Quang Ngọc, NXB Giáo dục , Năm 2007. Web: