Sau hơn 15 năm Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng.Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo điều kiện đẩy mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
36 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời Mở Đầu:
Sau hơn 15 năm Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng.Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo điều kiện đẩy mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Đây là một thành công lớn trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn và thách thức.Sự thành công này có sự đóng góp đáng kể của công tác hoạch định chiến lược phát triển, đặc biệt là vai trò của kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong cơ chế thị trường.
Sau hơn 15 năm tiến hành đổi mới, xét về mặt hạn chế quản lý nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Nhà nước sử dụng ngày càng tốt hơn hệ thống chính sách kinh tế và kế hoạch hoá để quản lý và điêù hành nền kinh tế. Bản thân công tác kế hoạch hoá cũng đã và đang trải qua thời kỳ đổi mới từng bước và cơ bản. Khi chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nhiều yêu cầu đặt ra đối với cơ chế quản lý nói chụng, cũng như công tác kế hoạch hoá nói riêng.
Đối với Việt Nam, kế hoạch hoá là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô rất quan trọng và đổi mới công tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng nội dung phương pháp cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là nội dung cơ bản của quá trình cải cách nói trên
Xuất phát từ nhận định trên em chọn đề tài “ vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay” Làm nội dung nghiên cứu cho đề an môn hoc của mình Đây là một lĩnh vực rất khó nhưng cũng rất thú vị, nhưng nghiên cứu nội dung này em mong muốn có được những hiểu biết sâu hơn về bản chất kế hoạch hoá phát triển
Em xin chân thành cảm ơn GSTS Vũ Thị Ngọc Phùng đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề án. Mặc dù đã có cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra khó khăn và do hạn chế về mặt kiến thức. Vì thế đề án của em không tránh khỏi những thiếu xót, vì vậy em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, nhận xét sửa đổi quý báu từ phía các thầy cô cho đề tài của em.
Em xin trân thành cảm ơn.
B. Nội dung
chương I:
bản chất kế hoạch hoá trong nền kinh tế thi thường
I - Phân biệt kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch hoá định hướng
*Khái niệm kế hoạch hoá:
Ngày nay khi nói đến kế hoạch hoá là nói đến kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô hay kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội Có nhiều khái niệm khác nhau về kế hoạch hoá do tiếp cận từ những góc độ không giống nhau có thể đưa ra một khái niệm mang tính tvàg quát như sau: Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội là một phương thức quản lý của Nhà nước bằng mục tiêu, thể hiện bằng việc xác định các mục tiêu về kinh tế xã hội Cần đặt được trong thời kỳ kế hoạch, các thể chế chính sách, những giải pháp cơ bản để thực hiện các mục tiêu đặt ra
1Bản chất của kế hoạch hoá tập trung
1.1-Khái niệm:
Kế hoạch hoá tập trung là một phương hướng kế hoạch hoá, trong đó mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đều được thực hiện trên cơ sở các quy định mang tính pháp lệnh phát ra từ trung ương
Trong cơ chế tập trung chính phủ thực hiện khống chế trực tiếp nhiều hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra nhiều quyết định từ trung ương các mục tiêu cụ thể được định trước bởi các kế hoạch ở trung ương đã tạo nên cơ sở cho một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính được phân phối không phải theo giá thị trường và các điều kiện cung_cầu, mà phân phối theo các nhu cầu vật tư, lao động, vốn của kế hoạch nền kinh tế mệnh lệnh là kế hoạch hoá trực tiếp
1.2- Sự ra đời và phát triển của kế hoạch hoá tập trung
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung bắt đầu được áp dụng phổ biến nhất ở Liên Xô cũ, và các nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung khác ở Đông Âu: AN_ BA_Ni, Bungari, Cộng hoà dân chủ Đức và Ru ma ni
Cuộc cánh mạng của những người cộng sản năm 1917 ở nước Nga đã đưa ra một con đường lựa chọn cho sự phát triển kinnh tế Sau khi thực hiện một số chính sách như: Chính sách cộng sản thời chiến, chính sách kinh tế mới từ năm 1928, Liên Xô bắt đầu áp dụng hình thưc kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế quôc dân bằng kế hoạch 5 năm đầu tiên 1928- 1932.
Mô hình kế hoạch hoá tập chung của Liên Xô trước đây đã trở thành hình mẫu không chỉ với các nước cộng hoà xã hội ở Đông Âu, TRung Quốc và Việt nam khi đó, mà còn đối với tất cả các nước đang phát triển
Sự tăng trưởng công nghiệp ngoạn mục ở Liên Xô trong vài thập kỷ đầu của chế độ mệnh lệnh được coi như một ví dụ về tính hiệu quả của kế hoạch hoá tập trung Tuy vậy, sự kỳ diêu của 50 năm đầu tiên của chủ nghĩa xã hội Xô viết đã bắt đầu có những dấu hiệu hoài nghi về sự khủng hoảng Mô hình kế hoạnh hoá tập trung ở Liên xô đã băt đầu có những dấu hiệu biểu hiên kém hiệu quả kinh tế Cơ chế này đã huỷ diệt dần các động lực cạnh tranh động lực phát triển tự giác và độc lập 70 năm chủ nghĩa xã hội với các cơ chế kế hoạnh hoá tập trung đã tạo cho nên kinh tế một chiếc kim tự tháp khvàg lồ bị sơ cứng lại bởi tệ nạn quan liêu và sức ỳ đáng sợ của cơ chế một loạt những thất bại kinh tế trong những thập kỷ tiếp theo va đăc biệt la nhưng năm 80 đã khiến cho người Xô Viết từ bỏ kế hoạnh hoá tập trung và chuyển sang nền kinh tế thị trường “có tiêu điểm” trong những năm 1990
1.3 Quá trình thực hiên kế hoạnh hoá tập trung ở phía nam
Công tác kế hoạch hoá ở Việt nam được chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, coi trọng ngay từ những ngày đầu giành độc lập Ngày 31-12-1945 người đã ký quyết định thành lập uỷ ban nghiên cứu kế hoạnh tái thiết đất nước
Đến năm 1950 uỷ ban này được đổi thành ban kinh tế chính phủ uỷ ban kế hoạnh quốc gia thành lập vào ngày 8-10- 1955 Cũng bắt đầu từ năm 1955 Việt Nam bắt đầu áp dụng mô hình kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp kế hoạch là công cụ quan trọng của nhà nước trong quản lý kinh tế
Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng tích cực là đã tập chung nguồn lực đặc biệt ứng phó kịp thời với chiến tranh, khắc phục hậu quả chiến tranh, tập trung được nguồn lực cho nhiều mục tiêu ưu tiên và phát triển
Bước đầu xây dựng cơ cấu kinh tế mới, phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân như: Phát triển lương thực, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp năng lượng…Tuy vậy sau năm 1975, tình hình kinh tế- xã hội của đất nước có nhiều thay đổi Chính từ yêu cầu của vân đề sản xuất, đời sống và hiệu quả kinh tế Đã nảy sinh những dấu hiệu đổi mới của công tác kế hoạnh hoá và những năm đầu thập niên 80, kết thúc 25 năm tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam
14 Đặc trưng cơ chế kế hoạch hoá tập trung
- Thứ nhất: kế hoạch hoá phân bố nguồn lực phát triển cho các mục tiêu đối với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể Kế hoạch chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế nhà nước và ngân sách nhà nước, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh. Còn các thành phần kinh tế khác không được coi trọng và do đó không bao quát được nền kinh tế quốc dân.
- Thứ hai: cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức “giao_nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, giao đến tận các cơ sở sản xuất kinh doanh theo bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trinh sản xuất kinh doanh
- Thứ ba: cơ chế kế hoạch hoá mang Vàng tính chất hiện vật và tính khép kín trong từng ngành và từng lãnh thổ
- Thứ tư: giá cả phần lớn được hình thành theo kế hoạch do nhà nước quy định. Cơ chế thị trường không được thừa nhận, sự điều tiết của thị trường thông quâ hệ thống giá cả rất yếu ớt
- Thứ năm: phương pháp kế hoạch hoá được tiến hành theo trình tự “hai xuống,một lên” nhằm kết hợp hài hoà giữa tính tập trung và tính dân chủ trong kế hoạch Song trên thực tế, quyền dân chủ, quyền chủ động của các đơn vị cơ sơ rất hạn chế Vai trò của kế hoạch của các đơn vị cơ sở rất thụ động. Hình thành một ‘tập quán” trong chờ, ỷ lại nhà nước
Bản chất của Kế hoạch hoá định hướng:
2.1 Khái niệm kế hoạch hoá định hướng
Về kế hoạch hoá phát triển có nhiều định nghĩa khác nhau do tiếp cận từ những gốc độ không giống nhau, tiếp thu, tổng hợp và kế thừa những định nghĩa của các tác giả nước ngoài cũng như các tác giả trong nước ta có một định nghĩa như sau:
Kế hoạch hoá thể hiện sự tác động có ý của chính phủ thông qua việc chủ động giải quyết mối quan hệ giữa khả năng và mục tiêu nhằm thực hiện các mục tiêu bằng cách sử dụng tối đa và có hiệu qủa
2.2 Sự ra đời và phat triển của kế hoạch hoá định hướng ở việt Nam
Thời kì 1980 đến đầu 1990 :Đây có thể gọi là thời kì cải cách kế hoạch hoá ở nước ta các chính sách của Đảng và Nhà Nước đã hướng cơ chế kế hoạch hoá trực tiếp chuyển dần sang gián tiếp. Phần lớn các chỉ tiêu trước Nhà Nước giao pháp lệnh được chuyển sang hình thức thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp tự chủ,lập kế hoạch theo nhu cầu thị trường và hợp đồng kinh tế Những cải cách trong thời kì này đã làm những nền tảng cơ bản để chuyển kế hoạch hoá tập trung sang hình thứckế hoạch hoá phát triển mang tính định hướng hiện nay ở nước ta
Tuy vậy, vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 sau khi các nước Đông Âu tan rã và sụp đổ của Liên Xô, có thể nói đó là thời kì khủng hoảng trong kế hoạch hoá ở việt Nam Nhiều người cho rằng đã chuyển sang nền kinh tế thị trường thì không cần kế hoạchvà công tác KHH Sự “dị ứng” KHH làm tràn lan từ các cấp sơ sở đến các lĩnh vực quản lý vĩ mô
Đến đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng và nàh nước ta đã chủ trương quyết tâm đổi mới cơ chế theo hướng “xoá bỏ KHH tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường và có sự quản của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Nhờ những thành tựu đã đạt được trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý nói chung và KHH nói riêng nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng với nhịp độ cao, kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát : Từ siêu lạm phát (với mức lạm phát 3 con số) xuống còn mức lạm phát 1 con số Vai trò của KHH phát triển ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở nước ta hiện nay và công tác KHH cũng đã và đang trải qua thời kỳ đổi mới từng bước và cơ bản
3 Những yếu tố cơ bản của kế hoạch hoá định hướng
3.1 Kế hoạch hoá là lựa chọn
Kế hoạch hoá là việc ra quyết định về lựa chọn một trong số nhiều phương thức hành động Có hai lựa chọn chính liên quan đến kế hoạch hoá
Thứ nhất: Là lựa chọn các mục tiêu ưu tiên, bởi vì nguồn lực có hạn nên không thể đáp ứng được cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển
Thứ hai: Kế hoạch hoá cũng liên quan đến sự lựa chọn trong số các phương thức hành động khác để đạt được cùng một mục tiêu. Mặc dù hai loại lựa chọn này khác nhau nhưng chúng đều liên quan đến quá trìn ra quyết định giống nhau Mối quan hệ giữa kế hoạch hoá và việc ra quyết định quan trọng đến mức nhiều công trình lý thuyết về kế hoạch hoá quan tâm đến các cách tiếp cận khác nhau đối với việc ra quyết định, cụ thể là đến các nhân tố được xem xét khi ra quyết định và trình tự ,quy trình ra quyết định. Hơn nữa, các nhà khoa học đã sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại để cải thiện cách thức ra quyết định và nâng cao chất lượng của các quyết định
32 Kế hoạch hoá là phân bổ nguồn lực
Một số yếu tố quan trọng khác của kế hoạch hoá liên quan đến phân bổ nguồn lực Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm nguồn lực tự nhiên mà còn bao gồm cả nhân lực, tài sản và tài chính
Kế hoạch hoá liên quan đến các quy định làm thế nào để sử dụng tốt nhất các nguồn lực hiện có Vì thế, số lượng và chất lượng của những nguồn lực này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình lựa chọn giữa các phương thức hành động khác nha. Một mặt giớ hạn về số lượng và chất lưọng các nguồn lực là lý do chính giải thích tại sao kế hoạch hoá lại liên quan đén việc ra quyết định lựa chọn trong các phương thức hành động khác nhau, mặt khác khi phaỉ lựa chọn giưa các phương thức hành động khác nhau thi khả năng cung ứng và các nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lượng phương thức co thể lựa chọn và phương thưc nào có khả năng chấp nhận hơn cả
Do việc kế hoạch hoá có liên quan đến việc phân bố các nguồn lực nên một bộ phận quan trọng của quá trình lập kế hoạch là thu thập và phân tích thông tin về khả năng cung ứng các nguồn lực hiện có
3.3 Kế hoạch hoá là cách đạt tới mục đích
KHH liên quan đến việc ra quyết định về các cách thức khác nhau để đạt được các mục tiêu cụ thể,quan niệm về kế hoạch hoá như cách thức đẻ đạt dược mục tiêu đặt ra những vấn đề về cơ bản của các mục tiêu và quy trình xây dựng mục tiêu. Một trong những vấn đè mà nhà kế hoạch thường gặp phải là những mục tiêu của họ không được xác định rõ ràng, trong một số trường hợp khác, mục tiêu lại không thực tế trong điều kiện cung ứng nguồn lực có hạnTrong trường hợp các nhà kế hoạch cũng gặp phải những vấn đè như: phải cố đạt được quá nhiều mục tiêu và đôi khi các mục tiêu trên đó lại mau thuẫn với nhau
3.4 Kế hoach hoá trong tương lai
Các mục tiêu và KHH muốn đạt tới rõ ràng là ở tương lai và kế hoạch hoá tất nhiên sẽ gắn tới tương lai. Một phần quan trọng củaKHH liên quan tới dự báo, hoặc đưa ra các dự báo về điều gì đó có thể sảy ra trong tương lai Tất nhiên không thể biết chính xác được điều gì sẽ sảy ra trong tương lai và vì thế KHH không trách khỏi việc chấp nhận ở mức độ nhất định, sự bất ổn và rủi ro
KHH không chỉ liên quan đến quyết định trình tự thực hiện các hoạt động một cách lo gic, có thứ tự, từng bước đạt được mục đích Kế hoạch phải lập cho một khoảng thời gian xác định, nhưng nó có nên được liên tục theo gõi và xem xét lại trong giai đoạn đó và nếu cần thì có thể đưọc kéo dài sang giai đoạn kế hoạch khác
Tóm lại, mặc dù kế hoạch nhất định phải liên quan đến tương lai, nhưng điều đó không hạn chế các nhà lập kế hoạch giành nhiều sự chú ý của họ nghiên cứu tình hình quá khứ và hiện tại
4 Nguyên tắc kế hoạch hoá định hướng
Kế hoạnh hoá phát triển là yếu tố tập trung của quản lý kinh tế, xã hội, được quán triệt bốn nguyên tắc sau:
4.1- Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung của nguyên tắc đặt ra các vấn đề cần phải giải quyết mang tính tập trung, các nội dung thực hiện mang tính dân chủ trong công tác kế hoá và cơ chế tập hợp cả hai yếu tố này
Tính tập trung trong kế hoạch hoá phát triển thể hiện ở các mặt sau đâyChính phủ thông qua các cơ quan kế hoạch hoá quốc gia thực hiện được chức năng định hướng, chủ động hình thành khung vĩ mô, các chỉ tiêu định hướng và cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ kế hoạch, đưa ra các chương phát triển kinh tế xã hội lớn, ban hành hệ thống chính sách thể chế để điều tiết và khuyết khích sự phát triển của thành phần kinh tế
Các kế hoạch chương trình dự báo phát triển phải được xây dựng, soạn thảo trên cơ sở các quan điểm chính trị, các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đảng và Nhà nước yêu cầu bảo đảm thể hiện sự nhất trí cao độ giữa kinh tế chính trị trong từng thời kỳ
Tính dân chủ trong kế hoạch hoá phát triển đặt ra các nội dung:
Thứ nhất: Sử dụng sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng vào thực thi kế hoạch Nó sẽ đảm bảo sự nhất trí cao của bản kế hoạch được xây dựng và khích lệ tiềm lực của các nhân cũng như cộng đồng trong thực hiện kế hoạch
Thứ hai: Sự dụng sự tham gia của khu vực tư nhân trong cộng tác kế hoạch hoá, trao đổi ý kiến với khu vực tư nhân sẽ có được thông tin tốt hơn về đặc điểm, quy mô, loại hình đầu tư và xu thế phát triển của khu vực tư nhân, tăng cường tính hiệu quả và sát định trong việc hoạch định và áp dụng các chính sách cho khu vực tư nhân
Thứ ba: Thể hiện trong việc tăng cường hình thức kế hoạch hoá phi tập trung
Thứ năm: Mở rộng tính chất dân chủ trong quan hệ tác động giữa nhà nước với cấp trên trong xây dựng và triển khai kế hoạch
4.2- Nguyên tắc thị trường
Mối quan hệ giữa kế hoạch với thị trường đã được đúc kết thành nhiều nội dung mang tích chất quy luật tất yếu có thể nghiên trên hai góc độ:
Nếc đặt kế hoạch là một chức năng quản lí, còn thị trường là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì có thể nói thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch hoá cơ chế kết hợp một cách tổng hợp nhất giữa hai yếu tố này thể hiện trong nền kinh tế hỗn hợp là: Thị trường điều tiết nền sản xuất, còn kế hoạch hoá điều tiết các quan hệ của thị trường
Nếu coi thị trường và kế hoạch là hai công cụ điều tiết nền kinh tế thì mối quan hệ giữa với thị trường thực chất là sự kết hợp giữa hai công cụ điều tiết trực tiếp (bằng kế hoạch) và điều tiết gián tiếp (thông qua thị trường) nguyên tắc thị trường đặt ra yêu cầu: kế hoạch không tim cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ xung cho thị trường và bảo đảm sự vận hành của thị trường luôn luôn tương xứng với sự liên kết xã hội của đất nước. Mặt khác kế hoạch phải căn cứ vào thị trường để đưa ra các mục tiêu hợp lí, cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ, chính sách để có sự lựa chọn tối ưu
4.3- Nguyên tắc linh hoạt mềm dẻo
Nguyên tắc này được đưa ra xuất phát từ nguyên tắc thị trường, nó tạo điều kiện thực hiện được nguyên tắc thị trường. Đối với nhà quản lí, nguyên tắc linh hoạt được xem là quan trọng nhất khi xây dựng kế hoạch. Kế hoạch càng linh hoạt thì sự đe doạ do các sự kiện hiện chưa từng lường trước được ngày càng ít Nguyên tắc linh hoạt thể hiện trước hết trong quá trình lập kế hoạch, phải xây dựng được nhiều phương án kế hoạch gẵn với mỗi biến số khác nhau về các điều kiện hiện tại cũng như tương lai .Nguyên tắc linh hoặt mềm dẻo còn thể hiện trong việc tổ chức cơ quan kế hoạch và cơ chế hoạt động của nó, cần phải đặt ra vấn đề phân công, phối hợp giữa cơ quan kế hoạch theo tuyến dọc và tuyến ngang trong điều hành và xây dựng kế hoạch cán bộ của cơ quan kế hoạch cần đặt vấn đề thay đổi vị trí làm việc thường xuyên để tránh việc sơ cứng và tạo điều kiện cho các ý tưởng mới xuất hiện
44- Nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội của các hoạt động kinh doanh
Chủ thể chủ yếu trong nền kinh tế thị trường làm các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau Nhưng quyết định của họ đều xuất phát từ lợi ích riêng của từng doanh nghiệp mà chỉ tiêu quan tâm hàng đầu là hiệu quả tài chính, lợi nhuận thu được từ chính các phương án sản xuất kinh doanh Nguyên tắc đặt ra các vấn đề chủ yếu sau trong hoạt động kế hoạnh Cơ quan kế hoạch hoá quốc gia phải đóng vai trò quyết định trong việc xác định khung vĩ mô cho sự phát triển kinh tế dài hạn của đất nước Bảo đảm tính hệ thống trong kế hoạch hoá thống nhất giữa đường lối phát triển với chiến lược phát triển, hoặc các kế hoạch phát triển Các chương trình dự án là sự cụ thể kinh tế xã hội thể hiện rõ nét trong nội dung quản lí và thẩm định các chương trình, dự án phát triển để quyết định hướng phân bổ nguồn lực
5- Nội dung KHH định hướng
KHH theo góc độ nội dung thì nó là một hệ thống có mối liên hệchặt chẽ với nhau của các bộ phận cấu thành bao gồm các chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển và các trương trình dự án phát triển
5,1- chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Trước hết nghiên cứu về bản chất của chiến lược và phát triển: hiến lược và phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát định hướng phát triển và các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài
Sự cần thiết phải có chiến lược phát triển kinh tế - hội trong quá trình phát triển: ong quá trình phát triển nói chung đặc biệt là giai đoạn đầu công nghiệp hoá các nguồn lực thường khan hiếm và đòi hỏi phai co sự huy đọng và phối hợp tốt nhất để tạo ra hiệu quả cao. Cơ chế thị trường có những hạn chế đảm bảo phát triển cân đối các mục tiêu về mặt xã hội cho nên Nhà nước phải có sự can thiệp đối với thị trường phải xác định được mục tiêu con đường phát triển mong muốn cũng tạo ra môi trường để thực hiện. Đó chính là hoạch định chiến lược để phát triể