Đề tài Vai trò của tài chính trong Kinh tế thị trường

Nước ta cũng như một số các nước XHCN đã phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch tập trung trong một thời kỳ nhất định nền kinh tế cũng đã góp một phần quá trình vào thắng lợi của công cuộc chống Mỹ và thống nhất tổ quốc thể hiện được tính ưu việt của chế độ xã hội mới tuy nhiên duy trì quá nên mô hình trên cho nên nền kinh tế của nước ta bị sơ cứng kém năng động,

doc17 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của tài chính trong Kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nước ta cũng như một số các nước XHCN đã phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch tập trung trong một thời kỳ nhất định nền kinh tế cũng đã góp một phần quá trình vào thắng lợi của công cuộc chống Mỹ và thống nhất tổ quốc thể hiện được tính ưu việt của chế độ xã hội mới tuy nhiên duy trì quá nên mô hình trên cho nên nền kinh tế của nước ta bị sơ cứng kém năng động, cộng thêm hậu quả chiến tranh kéo dài và khi nguồn viện trợ từ Nhà nước giảm sút đã gây ra khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nhiều năm liền. Do đó, tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt Đại hội đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó là kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy tài chính cũng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là một bước đi quá quan trọng của tài chính trong giai đoạn mới: cũng có bước chuyển mình đặc biệt là phát huy vai trò của mình trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Là một sinh viên khoa tài chính doanh nghiệp. Em càng cần phải tìm hiểu sâu thêm và nhìn nhận một cách thấu đáo về môn học của mình. Thông qua bài tiểu luận này với số kiến thức còn hạn chế, thời gian học tập nghiên cứu chưa nhiều, bài viết của em chỉ có thể trình bày một số ý kiến, suy nghĩ của bản thân, mong thầy xem xét giúp đỡ và chỉ bảo thêm để em có thể hoàn thiện kiến thức của mình về môn học này. Em xin chân thành cảm ơn! Nội dung 1. Tài chính. Khái niệm: Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành và phân phối quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất của tài chính Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và nền sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bản chất của tài chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ tài chính dưới đây: - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước: đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách Nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải đảm bảo cho các hoạt động của Nhà nước diễn ra bình thường, trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dânghiên cứu ư, doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách Nhà nước và ngược lại. Trong chủ nghĩa tư bản mối quan hệ càng nhìn bề ngoài càng được thể hiện thông qua hai chiều nhưng mục đích và bản chất lợi ích có khác, sự khác nhau này có tính chất quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối khác nhau quy định. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng, trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng việc tài trợ tạo vốn cho các hoạt động kinh tế xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng tạo thuận lợi phát triển mạnh mẽ với quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng giữa các tổ chức dân cư, các doanh nghiệp và ngân hàng. - Nhóm các quan hệ tài chính giữa các chủ thể với thị trường. Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các "quỹ tiền tệ" tồn tại dưới các hình thức khác. Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội, Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ Nhà nước bán quỹ tiền tê của mình bằng việc phát hành công trái trong mối quan hệ tài chính nói trên quan hệ mua bán "vốn" giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quá trình, Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hưu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính, vừa chống lại tính tự phát và sự lũng loạn trên thị trường tài chính nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo phương hướng đã định. - Nhóm quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể kinh tế. Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân người lao động. Thông qua các khoản thu về tiền phạt do vi phạm hợp đồng, vi phạm vật chất, thông qua việc cấp phát vốn, phân phối điều hoà vốn, thông qua phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể. Chức năng của tài chính - Chức năng phân phối: để tồn tại và phát triển xã hội phải thường xuyên tiền hành sản xuất và tái xã hội của cải vật chất xã hội, trong quá trình ấy, của cải thường xuyên được tập trung lại rồi được phân chia thành các bộ phận khác nhau, nhờ đó mà quá trình sản xuất và tái sản xuất có thể thực hiện được. Trong nền kinh tế thị trường, việc phân chia của cải vật chất của xã hội chủ yếu thực hiện thông qua hoạt động tài chính được quy thành tiền, thành giá trị và chúng được phân phối thông qua sự vận động tài chính. Vì vậy toàn bộ các mối quan hệ giá trị nói trên được thực hiện thông qua chức năng phân phối của tài chính - chức năng tập trung và phân chia của cải vật chất của xã hội trong quá trình tái sản xuất. - Chức năng giám đốc: Cũng như phân phối, chức năng giám đốc xuất phát từ thuộc tính vốn có của tài chính, sự tồn tại của phạm trù tài chính tất yếu dẫn đến biểu hiện ở chỗ tài chính có vai trò như người giám sát đôn đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của Nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền Kinh tế Quốc dân, chẳng hạn để xây dựng một công trình nhất định, người ta phải tái hiện một số vốn các phần việc và các loại hình công việc nhất định. Các phần vốn này sẽ được cung cấp theo phương thức và tiến độ nhất định để thực hiện các công việc theo kế hoạch, từng bước phù hợp với các điều kiện vật chất và kỹ thuật công trình. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, người ta có thể biết được tình hình thực hiện công trình để có giải pháp điều chỉnh về tài chính cho thích hợp. Tóm lại: hai chức năng phân phối và giám đốc là hai chức năng cơ bản của tài chính là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau thông qua đó các chủ thể vận động để sử dụng có hiệu quả của Nhà nước và các nguồn lực của tài chính như công cụ cực kỳ quan trọng trong phục vụ tốt mục đích đề ra trong từng thời kỳ. 2. Tài chính trong nền kinh tế kế hoạch bao cấp. Tài chính trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, chịu tác động và ảnh hưởng nặng nề của tính chất đơn nhất hoá nhà nước, nhận thức quan niệm về bản chất, chức năng, vai trò vị trí của tài chính bị gắn chắt vào tính chất nhà nước, bị bó hẹp phạm vi trong các hoạt động kinh tế của khu vực có tầm bao quát của nhà nước. Vì thế đã dẫn đến nhận thức cho rằng tài chính chỉ là các quan hệ phân phối nảy sinh trong các quá tình phân chia tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung. Quan niệm về hệ thống tài chính theo hình thức phân chia thành tài chính tập trung và tài chính phi tập trung đã toát lên hình ảnh của hệ thống tài chính gắn chặt vào hệ thống nhà nước, tách rời với sự vận động cảu các quy luật kinh tế diễn ta ở cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Do đó, giá trị của cải xã hội và tài sản quốc gia trở nên nằm ngoaì phạm vi phân phối của tài chính. Vai trò của tài chính thụ động trong việc thực hiện các mệnh lệnh hành chính của nhà nước, các công cụ hành chính bị xếp vào hàng thứ yếu, thậm chí bị lãng quên khi nhà nước thực hiện quản lí nền kinh tế – xã hội. Sự vận động của các mối quạ hệ phân phối của tài chính để hình thành nên các quĩ tiền tệ thường không tuân theo sự vận động khách quan của các quy luật giá trị, trái lại nó phụ thuộc và bị khép lại trong giới hạn của các mệnh lệnh hành chính và chỉ tiêu kế hoạch. 3. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao khi sản xuất hàng hóa mang tính phổ biến, bản thân sức lao động cũng trở thành hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành hình thức nội tại của sản xuất xã hội. Nói cách khác, là nền kinh tế là mọi quan hệ kinh tế –xã hội cơ bản được giải quyết thông qua thị trường và cơ chế thị trường. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một bước chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước ta để có thể hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, không bị tụt hậu, lạc hậu, nghèo đói đeo đuổi. Kinh tế thị trường có nhiều điểm khác biệt so với kinh tế kế hoạch, bao cấp mà nước ta đã thực hiện trong suốt một thời gian dài trước đó. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của tài chính được đẩy lên một mức mới, quan trọng hơn, cần thiết hơn, cấp thiết hơn rất nhiều so với trong nền kinh tế kế hoạch. 4. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường Chuyển sang kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hoá pháp lệnh, sự vận động của các quĩ tiền tệ trở nên đa dạng, vai trò và tính chất nhà nước hoá đã được dung hoà bởi tính chất xã hội hoá, dưới nhiều hình thức sở hữu, hoạt động kinh tế diễn ra ở mọi lĩnh vực theo sự vận động cúa các quy luật thị trường tác động đến các quá trình chu chuyển các nguồn lực tài chính. Xuất phát từ tính chất và đặc điểm của tài chính là vừa gắn liền với tính chất và đặc điểm của nhà nứơc lại vừa nảy sinh từ kinh tế nên trong điều hành vĩ mô, nó có 2 vai trò cơ bản: Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của nhà nước: Trong kinh tế thị trường, tuy mọi hoạt động kinh tế diễn ra trên thị trường, tuân theo những qui luật kinh tế khách quan. Tuy nhiên, để kinh tế thị trường cũng chứa đựng hàng loạt các khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết, đồng thời nền kinh tế thị trường Việt Nam cần có những định hướng nhất định để đi đúng con đường lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước vẫn cần có sự can thiệp nhất định vào nền kinh tế thị trường- chủ yếu ở tầm vĩ mô. Sự điều chỉnh này được thực hiện bằng các biện pháp kinh tế, chủ yếu thông qua chính sách tài chính và tiền tệ- tín dụng. Thực tế các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường cho thấy thiếu cơ chế tài chính – tiền tệ hoàn thiện thì dứt khoát không thể tạo ra nền kinh tế hiệu quả , có cơ cấu hợp lý, phát triển nhịp nhàng. Trước hết nhà nước thông qua quan hệ tài chính để xây dựng một chính sách tài chính quốc gia có tính chiến lược nhằm: *Điều tiết kinh tế: Để điều tiết kinh tế nhà nước phải kết hợp cả hai chức năng của tài chính: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định sao cho tạo vốn, huy động vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả làm tăng giá thị tài sản quốc gia. Của cải quốc gia xét về mặt hiện vật như máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ có thể vẫn hoạt động ở một chỗ nhất định… trái lại, xét về mặt tiền tệ của mọi của cải thì nó có thể tuần hoàn di động nhanh hơn, linh hoạt hoan, tạo ra những khả năng mới to lớn hơn thông qua quỹ khấu hao, quỹ bảo hiểm, quỹ cổ phần, … Ví dụ: Một nhà máy sản xuất gạch ốp lát đã có một thời gian nhiều năm liền hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước và đã được khấu hao một phần lớn trang thiết bị máy móc và cộng với phần tích luỹ vể bảo hiểm, đã được Nhà nước thông qua tài chính để đầu tư xây dựng một nhà máy mới ở nơi khác. với kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn sovới nhà máy cũ sau đó để tiếp tục duy trì sự hoạt động của nhà máy cũ Nhà nước đã tiến hành cổ phần hoá nhà máy cũ qua đó có thể thu hồi được vốn xây dựng cơ bản ban đầu. Thông qua tài chính Nhà nước đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Bảo hộ những ngành nghề là thế mạnh của đất nước. - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. - Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối. *Tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tệ, tính sinh lãi của các bất động sản, của vốn nhà mỗi, của các vị trí lợi thế so sánh… mà làm cho mọi người dân có ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh các tài sản đó vào kinh doanh. Như vậy nhờ chính sách sinh lợi của tài chính mà biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền kinh doanh…Điều này ở nước ta đã thể hiện ở một phần ở mối liên hệ kinh doanh với nước ngoài như: đất, đồi trọc, sông suối,… trở thành vốn kinh doanh. Các lợi thế so sánh trở thành lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh hoạt trở thành vốn kinh doanh. *Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu: tiết kiệm, tích luỹ tăng đầu tư đi đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phần tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán từ năm 1993 đến 1996, nước ta cần một khối lượng vốn tích luỹ đầu tư khoảng 16% GDP hàng năm. Khả năng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng này về phia Chính phủ khoảng 2-3% GDP hàng năm, vì Chính phủ chưa có khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế . Do đó, 8-9% vốn đầu tư còn lại do 3 nguồn sau cung cấp: - Huy động vốn tích luỹ trong dân - Vốn viện trợ nước ngoài - Vốn do khai thác tài nguyên khoáng sản, bất động sản của quốc gia Trong đó,vốn trong dân là chủ yếu. Để huy động được nguồn vốn trong dân chúng, hay của cả các nguồn khác vai trò của tài chính là rất to lớn. Tài chính phải : + Có chính sách tài chính sinh lợi thế nào để khuyến khích dân tích luỹ, bỏ vốn vào kinh doanh + Trình Chính phủ các chính sách: về sở hữu tài sản tư nhân, bảo vệ sở hữu tư nhân bằng văn bản pháp quy, quyền thừa kế về tài sản một cách lâu dài, ổn định để người dân an tâm đầu tư, an tâm tích luỹ. + Có chính sách xây dựng tâm lí tích cực làm giàu, sao cho mọi người, mọi ngành đều cố gắng tự phát triển vươn lên. *Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lí: Trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối thu nhập được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Tương ứng với từng khu vực kinh tế – xã hội là một hệ thống tiền lương và thu nhập riêng, tương ứng với từng thành phần kinh tế là một hình thức kinh doanh riêng, có quỹ tiêu dùng riêng. Chính vì thế, mà tiền lương và thu nhập của người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau có sự chênh lệch cao. Sự chênh lệch quá mức về thu nhập và tiền lương giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến mức tiêu dùng hết sức khác nhay và đương nhiên có sự phân hoá trong xã hội. Từ đó tạo nên sự mất công bằng xã hội. VD như sự phân hoá giàu nghèo giữa thành thị- nông thôn. Do đó việc điều tiết thu nhập và tiền lương giữa những người làm công ăn lương, người hưởng theo chế độ, chính sách xã hội và ưu đãi của nhà nước trong phạm vi toàn xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong đó, tài chính giữ vai trò đặc biệt quan trọng thông qua các chức năng của mình. VD: thông qua thuế, quỹ xoá đói giảm nghèo, nâng lương cho các ngành có thu nhập thấp,…Việc điều chỉnh này không chỉ là điều tiết thu nhập quá cao mà cả việc điều tiết phần thu nhập quá thấp đến mức trung bình để người lao động đảm bảo cuộc sống. Điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế – xã hội đã được xác định Tài chính vừa là công cụ để góp phần điều hành kinh tế vĩ mô, vừa là lĩnh vực kinh tế hoạt động theo các yêu cầu của kinh tế. Chẳng hạn, trong kinh tế thị trường thì tài chính vừa là mua có trọng lượng, vừa là người bán có vai trò quyết định điều hành thị trường để điều tiết vĩ mô. Ví dụ: Việc vụ thu hoạch hè thu năm 2001 khi thị trường thóc lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long đã bị xuống giá gây rất nhiều thiệt hại cho nhân dân thì Nhà nước bằng vai trò tài chính điều hành vĩ mô đã chỉ đạo một số Công ty lương thực miền Nam, và các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long bằng cách. Qua các ngân hàng cho các Công ty này vay vốn với lãi suất ưu đãi để họ mua tích trữ thóc lúa của dân nhằm giữ giá thóc lúa của thị trường, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, cũng nhằm tích trữ đề phòng khi có những cơn sốt lương thực thì có thể tung ra bán để ổn định thị trường. 5. Một số biện pháp nhằm đảm bảo và nâng cao vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường ổn định giữ vững hệ thống luật pháp và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa a. Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần b. Tạo điều kiện hình thành phát triển thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán) c. Xây dựng hệ thống thông tin phân tích kiểm tra, và kiểm soát tài chính. d. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính e. Kiện toàn bộ má quản lý tài chính ở mức Nhà nước Đây là một trong những vấn đề nóng bỏng của giai đoạn hiện nay. Bởi tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ phức tạp với nhiều thành phần. Trong đó trọng tâm là xây dựng luật thuế, luật ngân hàng,… Phát triển hệ thống thông tin, dự báo, mở rộng quan hệ tài chính quốc tế, kiện toàn chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài Vai trò của thông tin trong điều kiện khoa học kĩ thuật phát triển hiện nay là rất cần thiết. Nó giúp các nhà quản lí tài chính có thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, toàn diện hơn không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên toàn thế giới. Từ đó, có thể đề ra các chính sách hợp lí hơn, phù hợp hơn với tình hình thực tế. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật. 6. Một số kết quả đạt được của tài chính trong nền kinh tế thị trường Về phân phối: hoạt động tài chính gắn liền với hoạt động phân phối. -Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: kết quả phân phối được nhà nước định đoạ trước qua các mệnh lệnh hành chính. Công cụ tài chính- tiền tệ chính chỉ là hình thức, hay một đồ trang sức. Mọi chỉ tiêu về thiết bị, vật tư lao động đều được xác lập bằng hiện vật trên cơ sở các văn bản hành chính. -Nay: mệnh lệnh hành chính được thay bằng hệ thống luật pháp, các thành phần kinh tế được tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tài chính đã thực sự trở nên rất phong phú và sôi động để đáp ứng các yêu cầu về chi trả, thanh toán, giao dịch. Tài chính vừa là phương tiện của các hành vi đó lại vừa là mục đích của các hành vi đó. Từ đó mà: + Thay cho việc chuyên đảm nhận bù lỗ, bù giá, bù lương,… ngân sách nhà nứơc đã có thể giành nguồn vốn của mình để đầu tư cho kết cấu hạ tầng, đảm nhiệm các khoản chi phí theo yêu cầu chung nhất của toàn xã hội, làm tiền đề thúc đẩy quá trình bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp. + Thay cho hoạt động cho vay bao cấp của ngân hàng nhà nước, đã xuất hiện hàng loạt các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại. Các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng với mục đích làm trung gian và thu hút vốn. + Hình thành thị trường tài chính: bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Lạm phát: số liệu thống kê cho thấy, nước ta đã có một thời gian dài nằm trong tình trạng lạm phát với tốc độ tăng giá bình quân hàng năm từ trên 140% đến 600%. Đặc biệt tình trạng siêu lạm phát gần như liên tục suốt 6 năm liền (1982-1984 và 1985-1988) đã thực sự là một thảm hoạ mà nhân dân ta phải gánh chịu. Có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về nguyên nhân gây ra lạm phát. ở nước ta, sau quá trình nghiên cứu và phân tích tình hình kinh tế –tài chính hơn một thập kỉ qua đã cho thấy nguyên nhân chính của tình trạng lạm phát là sự mất cân đối về kinh tế, song nguyên nhân thúc đẩy lạm phát lên mức cao và ngaỳ càng trầm trọng lại thuộc về lĩnh vực tài chính. Tới năm 1988, bên cạnh một số chính sách về kinh tế chung ta bắt đầu sử dụng công cụ tài chính để tấn công trở lại cơn sốt lạm phát. Đó là chính sách sử dụng tỷ giá linh doạt, phù hợp với sự biến động giá cả trên thị trương và đặc biệt là chính sách lãi suất tiết kiệm đảm bảo cho người gửu tiền không bị mất vốn do yếu tố lạm phát gây ra. Việc đưa lãi suất tíêt kiệm có kì hạn( 3 tháng) lên 12%/ tháng là một liều thuốc cực mạnh về mặt tâm lý để đánh vào lạm phát. Lượng tiền gửi vào tiết kiệm lập tức tăng vọt và lạm phát giảm dần. Đến nay với chính sách lãi suất hợp lý, tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã giảm hẳn và ở mức cho phép. Kết luận Trong nền kinh t
Tài liệu liên quan