Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển và giàu mạnh, Đảng và nhà nước ta tích cực thực hiện các biện pháp nhằm minh bạch hóa nguồn tài sản nhà nước cũng như cơ chế chống thất thoát lãng phí nguồn tài sản quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng một Việt Nam giàu mạnh văn minh. Là một nước đang phát triển nên Việt Nam có tệ nạn tham nhũng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực tế đó buộc chúng ta phải có cơ chế nhất định để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý nhà nước cũng như xây dựng đất nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng mà bất kỳ một xã hội thể chế nào cũng có là một trong những tệ nạn phổ biến và gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị quốc gia. Đã hằng bao năm mọi chính phủ mọi nhà cầm quyền đều cố gắng ngăn chặn tham nhũng, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì những hạn chế và những thuộc tính vốn có của tham nhũng mang tính cố hữu đã gây ra những khó khăn nhất định cho công cuộc phòng chống tham nhũng. Một trong những kết cấu mang tính nội tại bền vững mà tham nhũng luôn có là yếu tố xã hội, để làm trong sạch nó thì xã hội cần phải có những hành động thiết thực cùng với nhà nước thể hiện sự phản đối của mình đối với tham nhũng.
32 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển và giàu mạnh, Đảng và nhà nước ta tích cực thực hiện các biện pháp nhằm minh bạch hóa nguồn tài sản nhà nước cũng như cơ chế chống thất thoát lãng phí nguồn tài sản quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng một Việt Nam giàu mạnh văn minh. Là một nước đang phát triển nên Việt Nam có tệ nạn tham nhũng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực tế đó buộc chúng ta phải có cơ chế nhất định để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý nhà nước cũng như xây dựng đất nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng mà bất kỳ một xã hội thể chế nào cũng có là một trong những tệ nạn phổ biến và gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị quốc gia. Đã hằng bao năm mọi chính phủ mọi nhà cầm quyền đều cố gắng ngăn chặn tham nhũng, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì những hạn chế và những thuộc tính vốn có của tham nhũng mang tính cố hữu đã gây ra những khó khăn nhất định cho công cuộc phòng chống tham nhũng. Một trong những kết cấu mang tính nội tại bền vững mà tham nhũng luôn có là yếu tố xã hội, để làm trong sạch nó thì xã hội cần phải có những hành động thiết thực cùng với nhà nước thể hiện sự phản đối của mình đối với tham nhũng.
Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc phát triển kinh tế xã hội tệ nạn tham nhũng xuất hiện và ngày càng có chiều hướng phát triển tăng cao cả về số lượng và tính chất nghiêm trọng. Việt Nam là nước đang phát triển một xu hướng chung của toàn thế giời là tham nhũng ở trong nhóm nước này thường rất cao do nhiều nguyên nhân. Một ngyên nhân chính đó là cơ chế pháp lý về tham nhũng chưa hoàn hảo và nền kinh tế chưa phát triển mặt lợi ích của cán bộ công chức chưa được nâng lên để đảm bảo cuộc sống hàng ngày, vai trò của các cấp quản lý nhà nước chưa thật chú trọng đúng mức đến ảnh hưởng của tham nhũng đến xã hội nói chung là nhà nước và xã hội chưa thật sự vào cuộc để chống tham nhũng, tham nhũng gây ra thiệt hại cho nhà nước và đó cũng chính là gián tiếp gây thiệt hại cho nhân dân vì tài sản của nhà nước cũng chính là tài sản của nhân dân mà có, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Trong những năm qua, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng đã được Đảng và nhà nước ta tiến hành, song để đáp ứng nhu cầu về mặt thực tiễn đảm bảo hiệu quả trong phòng chống tham nhũng đội ngũ cán bộ phục vụ cho công tác đã được quan tâm chỉ đạo, trong đó việc nâng cao chất lượng và số lượng của đội ngũ chuyên làm công tác phòng chống tham nhũng cũng được chú ý. Ngoài các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ phát hiện, xử lý các vụ tham nhũng như: Thanh tra, Cơ quan điều tra..Thì hiện nay Đảng và nhà nước ta đã chú trọng hơn đến các đối tượng khác, đặc biệt là công dân và cơ chế bảo vệ công dân khi tố giác tội phạm nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng. Việc hoàn thiện và nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước từ trung ương đến địa phương là cơ quan trực tiếp và chuyên trách đối với việc phát hiện xử lý phần lớn các vụ tham nhũng của cả nước, thanh tra đang từng bước hoàn thành một đội ngũ cán bộ có trình độ. Nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội về cơ sở pháp lý, là mặt thể hiện thái độ của nhà nước đối với tham nhũng, nhà nước ta đã dần hoàn thiện luật về phòng chống tham nhũng sao cho hợp với tình hình đất nước và trên thế giới trong thời kỳ hội nhập, việc xây dựng các luật và các kế hoạch hoạt động hàng năm cũng như chiến lược dài hạn mang tính quyết định đối với công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Đề tài mà tôi nghiên cứu mong góp một phần nhỏ về cách nhìn tổng quan hơn về tham nhũng của nước ta hiện nay.
1.2 Đối tượng, mục đích chọn đề tài
Đối tượng: Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và các quy định hiện hành của pháp luật tham nhũng trong các văn bản pháp luật: Luật thanh tra, Luật phòng chống tham nhũng và một số văn bản khác liên quan đến tham nhũng, quy định cơ sở pháp lý về phòng chống tham nhũng và tập trung nghiên cứu sâu những vấn đề thực tiễn đặt tại địa bàn kiến tập. Làm rõ những nguyên nhân và đặc điểm của tham nhũng cũng như thực tế tham nhũng tại Việt Nam. Từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhắm nâng cao hiệu quả của phòng chống tham nhũng ở nước ta. Nghiên cứu vai trò của thanh tra trong phòng chống tham nhũng cũng như cơ chế pháp lý để thanh tra có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ chống tham nhũng, cũng như tìm ra giải pháp về mặt lý luận, thực tiễn để nâng cao vai trò của thanh tra ở các địa phương cũng như trên địa bàn kiến tập, để nâng cao thêm tính hiệu quả trong việc xử lý các hành vi tham nhũng trong cả nước cũng như từng địa phương nhất định.
Mục đích: Đề tài này tôi nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ hơn thực trạng tham nhũng của nước ta và xác định vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng. Để chúng ta có cách nhìn sâu sắc và toàn diện hơn trước thực trạng tham nhũng của Việt Nam, nâng cao sự quan tâm của cộng đồng xã hội nhà nước trước vấn đề này và đề ra những giải pháp khắc phục. Bằng cách đi sâu vào nghiên cứu phần lý luận, cơ sở pháp lý để thấy được những cố gắng của Đảng và Nhà nước đang thực hiện để giảm tệ nạn tham nhũng hiện nay, cũng như thấy được những khó khăn vướng mắc trong giải pháp nâng cao lý luận áp dụng thực tiễn trong phòng chống tham nhũng hiện nay. Từ đó nhằm góp phần huy động một phần lớn nguồn lực tri thức cùng nhau giải quyết những khó khăn vướng mắc của luật về phòng chống tham nhũng, cơ chế xung quanh vấn đề này, nhằm ngày càng hoàn thiện hơn pháp luật tham nhũng của nước ta.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài “Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập”. Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp thống kê
1.4 Kết cấu đề tài
Đề tài có kết cấu ba phần gồm: Phần một là phần mở đầu; Phần hai là phần nội dung; Phần ba là phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận và thực trạng trong phòng chống tham nhũng ở nước ta gồm 4 nội dung lớn: Khái niện về tham nhũng; Thực trạng về phòng chống tham nhũng ở nước ta; Lý luận về phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao phòng chống tham nhũng.
Chương 2: Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng gồm 3 nội dung lớn: Khái niệm về thanh tra nhà nước; Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng.
Chương 3: Thực trạng phòng chống tham nhũng của thanh tra nhà nước tại địa bàn kiến tập gồm 3 nội dung lớn: Khái quát chung về địa bàn kiến tập; Những cơ sở thực tiễn tại địa bàn kiến tập; Bài học kinh nghiệm thực tiễn.
Phần 2: Phần nội dung
Chương 1: Lý luận và thực trạng trong phòng chống tham nhũng ở nước ta
- Khái niện về tham nhũng
1.1.1- Khái niệm:
Trên thế giới bàn về khái niệm tham nhũng, cho đến nay đã có nhiều tổ chức, nhà nghiên cứu làm rõ nội hàm của khái niệm này và đã có nhận thức tương đối thống nhất của giới khoa học cũng như của các chính khách trong nước và thế giới.
Theo Liên Hợp Quốc: Bản Hiệp Ước của Liên Hợp Quốc về Chống Tham Nhũng (UNCAC) không định nghĩa tham nhũng. Các thành viên tham dự Hội nghị của Liên Hợp Quốc về các Biện Pháp Chống Tham Nhũng, Quản Trị Hiệu Quả và Nhân Quyền năm 2006 cũng không đạt tới đồng thuận về một định nghĩa chung cho tham nhũng, mà chỉ nói một các chung chung về tham nhũng như là “sự lạm dụng quyền lực công để theo đuổi lợi ích tư.”
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), tham nhũng là hành vi "của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân".
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: tham nhũng là “lạm dụng công quyền để tư lợi”
Theo Vito Tanzi: Tham nhũng là “hành động cố tình không tuân thủ các nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có liên quan tới hành động đó”.
Theo Michael Johnston: Tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công hay của cải công cho lợi ích tư”.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất. Đặc biệt là các quy định của pháp luật đã có từ khá sớm.
Theo điều 1 của Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26 tháng 02 năm 1998: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Theo điều 10 khoản 2 của Luật phòng chống tham nhũng số 55 Quốc Hội XI ngày 29 tháng 11 năm 2005: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Như vậy, nhìn chung các khái niệm tham nhũng của Việt Nam không khác gì nhiều so với thế giới cũng đều mang những đặc điểm nhất định.
1.1.2- Đặc điểm tham nhũng: Đặc điểm chung của tham nhũng đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng” với những dấu hiệu sau: Người có chức vụ, quyền hạn trộm cắp, tham ô tài sản của nhà nước; Lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình; Tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Ở Việt Nam, trên quan điểm tổng thể đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Thực trạng về tham nhũng ở nước ta
1.2.1- Thực trạng tham nhũng ở nước ta.
Trong những năm qua xu thế chung của thế giới là có xu hướng tăng về số vụ cũng như tính chất nghiêm trọng của tham nhũng, nhìn chung các nhóm nước phát triến cao có trình độ lập pháp và kinh nghiệm trong đấu tranh phòng chống tham nhũng thì tỷ lệ tham nhũng thường thấp hơn so với các nhóm nước nghèo và nhóm nước đang phát triển. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế đã công bố bảng xếp hạng năm 2008 về “cảm nhận tham nhũng”. Trong 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với năm 2007.
Mức độ cảm nhận về tham nhũng được chấm từ điểm 0 (tham nhũng cao nhất) đến điểm 10 (được coi là “sạch” nhất).
Chỉ số "cảm nhận tham nhũng" của một số nước Đông Á
Cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta là rất cao so với thế giới và khu vực Đông Nam Á. Theo một báo cáo mới nhất về tham nhũng của Việt Nam so với khu vực thì chúng ta chỉ xếp trên bốn nước là Indonesia, Philipines, Laos và Campuchia. Chứng tỏ tham nhũng ở nước ta vẫn không hề giảm gì so với thực tế.
Theo nhiều tổng hợp đánh giá của cách cơ quan nhà nước và một số nhà nghiên cứu, thì thực trạng tham nhũng của nước ta hiện nay có thể khái quát rằng, tình trạng tham nhũng ở nước ta là khá phổ biến, xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Ở đâu có vấn đề liên quan đến mối quan hệ về lợi ích vật chất và tinh thần thì ở đó đều xảy ra tham nhũng.
Những hành vi tham nhũng rất đa dạng, phổ biến là hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ, dùng tài sản công để biếu xén, hối lộ, lừa đảo chiếm tài sản của Nhà nước, của nhân dân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu cho tổ chức, cá nhân để vụ lợi, thu vén quyền lợi cá nhân, lập quỹ trái phép, sử dụng ngân sách không đúng quy định để hưởng lợi. Các hành vi tham nhũng đã và đang xảy ra ở hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai, quản lý và sử dụng ngân sách, thuế, ngân hàng, hải quan, xuất nhập khẩu, tư pháp, giáo đục, y tế thực hiện chính sách xã hội trong quản lý hành chính, công tác xã hội... Có đủ mức độ tham nhũng của cá nhân, của tập thể, tham nhũng không có tổ chức và tham nhũng có tổ chức gồm nhiều đối tượng tham gia. Những thiệt hại do tham nhũng gây ra rất lớn, có vụ tham nhũng về kinh tế làm thiệt hại cho Nhà nước, nhân dân tới hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, làm thoái hóa, biến chất hàng loạt cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Cái thiệt hại đáng kể hơn, nặng nề hơn là tham nhũng đã làm xấu chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào tương lai của một chế độ tốt đẹp mà Đảng ta đang phát động xây dựng.
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Số vụ
171
238
394
280
289
Số bị can (Người)
218
604
795
622
631
Thống kê về chỉ số tham nhũng của nước ta trong nhưng năm gần đây
Nhìn vào bảng thống kê trên cho thấy rằng số lượng vụ tham nhũng cũng như số người vi phạm ngày càng tăng, mặc dù chúng ta đã có những giải pháp nhất định trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta trong những năm gần đây. Hiện nay tham nhũng ở nước ta là khá phổ biến và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ cũng như tính chất nghiêm trọng gây thiệt hại cho nhà nước rất lớn. Đặc biệt tham nhũng trong các cơ quan công quyền ngày càng lớn và tinh vi, đã xuất hiện sự móc nối giữa các cá nhân trong cơ quan nhà nước nhằm che đậy các hành vi tham nhũng của mình khi hát hiện thì thường có liên quan đến rất nhiều người trong đó có cả những người giữ chức vụ chủ chốt trong Đảng và cơ quan nhà nước. Một thực trạng tham nhũng phổ biến nữa hiện nay là tham nũng cùng với tội phạm kinh tế là hoàn toàn xảy ra rất phổ biên và thường là những vụ án lớn gây thất thoát rất lớn cho tài sản nhà nước cũng như làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào trong nước, giảm các kênh cung cấp vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế đối với các dự án mang tính an sinh xã hội của nước ta. Việc tham nhũng cùng với các quan chức lãnh đạo đang nổi lên khá phổ biến hiện nay.
Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến UBND xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra của nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự. Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan. Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để doạ dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Ví dụ về một số vụ tham nhũng điển hình:
Thứ nhất là vụ án “con bạc triệu đô”năm 2006 : Bùi Tiến Dũng và tiêu cực lớn ở Ban Quản lý dự án (BQLDA) PMU18 - Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) bị phanh phui khiến Bộ trưởng GTVT Đào Đình Bình bị cảnh cáo và phải từ chức. Tiếp đó, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông Vận tải, người được coi là “có triển vọng”, bị bắt; 17 tổ chức và 40 cá nhân ở Bộ GTVT liên quan đã bị xử lý; một số cán bộ của ngành Công an liên quan đến việc “chạy án” bị đình chỉ công tác. Chính phủ đã phải xem xét và điều chỉnh cơ chế quản lý vốn ODA.
Thứ hai là vụ tham nhũng, tiêu cực tại Ban điều hành Đề án 112 của Chính phủ năm 2007: Với tổng kinh phí sử dụng cho Đề án 112 là 1.159,636 tỷ đồng trên tổng số kinh phí được cấp phát là 1.534,325 tỷ đồng, các đối tượng đã chi sai mục đích, gây thất thoát 247,19 tỷ đồng (kết luận của Kiểm toán Nhà nước). Tính chất đặc biệt nghiêm trọng còn thể hiện ở chỗ, sai phạm xảy ra ở dự án có quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng và địa bàn rộng khiến nhiều mục tiêu, yêu cầu của chương trình tin học hoá hành chính Nhà nước không thực hiện được;16 đối tượng bị khởi tố, trong đó có nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nguyên Trưởng Ban điều hành Đề án 112 Vũ Đình Thuần.
Như vậy, tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt là đặc điểm quan trọng nhất của nạn tham nhũng ở nước ta và cũng chính nó làm cho tham nhũng trở nên trầm trọng. Thực trạng này rất nguy hiểm không những nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước mà còn làm băng hoại đạo đức xã hội, phá hoại các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc - vốn là nguồn sức mạnh của dân tộc ta từ trước đến nay.
1.2.2- Nguyên nhân tham nhũng.
Là nước ta đang nghèo cơ chế để đảm bảo ổn định đời sống của cán bộ công chức là rất thấp, nhiều cán bộ công chức đồng lương không thể đảm bảo sinh hoạt gia đình, dẫn đến sự nhiệt tình trong công việc không cao, nhận thức của một số cán bộ còn non kém về hậu quả của tham nhũng đối với đất nước. Cơ chế pháp lý để xử lý các đối tượng tham nhũng là không cao và chưa đủ tính răn đe, cơ chế pháp lý vừa thiếu lại vừa yếu nên nhiều vụ không biết xử lý như thế nào hoặc xử lý qua cho xong, tâm lý nể nang trong quá trình xử lý các đối tượng vi phạm trong cán bộ công chức là nguyên nhân tái phạm lại tham nhũng. Xã hội chưa thật sự nhìn nhận đúng hậu quả nếu không nói là thờ ơ với thực trạng tham nhũng hiện nay. Nhà nước không thật sự chú trọng đẩy mạnh trong công tác phòng chống tham nhũng. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay là rất đáng báo động.
Phần lớn các b