Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội, đó là: Hình thái công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất, từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế.
Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới dù là những nước trước đây nền kinh tế chỉ dựa vào sự hoạt động cuả cơ chế thị trường hay những nước trước đây chỉ dựa vào vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước, đều đang nghiên cứu để xây dựng một mô hình cơ chế tổ chức quản lý điều hành nền kinh tế thích hợp nhất. Tuy nhiên không có một hình mẫu chung nào mà mỗi nước với hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội riêng thì phải có một mô hình riêng sao cho phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Nhưng xu thế chung trên toàn cầu phải là một cơ chế dựa trên sự kết hợp hài hòa tương hỗ giữa "Bàn tay vô hình" và "Bàn tay hữu hình" Hay nói cách khác là sự kết hợp giữa sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những tệ nạn và hậu quả xã hội một cách hiệu quả nhất.
Mặc dù vậy, việc xác định mức độ, liều lượng và cách thức can thiệp của Nhà nước vào kinh tế vẫn đang là một bài toán khó đối với rất nhiều nước. Với nước ta vấn đề còn phức tạp hơn, vì do hoàn cảnh riêng nên chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy ngoài vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường để phát huy những ưu thế và khắc phục mặt traí của nó, Nhà nước còn phải định hướng nó phát triển theo mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế đến tận giai đoạn hiện nay vẫn chưa có một cơ chế quản lý nào như vậy. Tất nhiên là nếu có một cơ chế nào như vậy thì chỉ thuận lợi cho việc định hướng và học tập những bài học kinh nghiệm chứ không thể bệ nguyên cái cơ chế đó vào hoàn cảnh nước ta được. Do đó đòi hỏi các nhà kinh tế cần phát huy hết năng lực, tìm tòi, sáng tạo để đề ra một phương thức quản lý tối ưu nhất của Nhà nước đối với nền kinh tế, để vừa phát triển kinh tế vừa đảm bảo cho xã hội ngày càng công bằng và văn minh hơn.
Chính vì để nâng cao sự hiểu biết của mình về vấn đề nêu trên nên em đã chọn đề tài "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay".
22 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - đặt vấn đề
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế xã hội, đó là: Hình thái công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất, từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế.
Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới dù là những nước trước đây nền kinh tế chỉ dựa vào sự hoạt động cuả cơ chế thị trường hay những nước trước đây chỉ dựa vào vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước, đều đang nghiên cứu để xây dựng một mô hình cơ chế tổ chức quản lý điều hành nền kinh tế thích hợp nhất. Tuy nhiên không có một hình mẫu chung nào mà mỗi nước với hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội riêng thì phải có một mô hình riêng sao cho phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Nhưng xu thế chung trên toàn cầu phải là một cơ chế dựa trên sự kết hợp hài hòa tương hỗ giữa "Bàn tay vô hình" và "Bàn tay hữu hình" Hay nói cách khác là sự kết hợp giữa sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những tệ nạn và hậu quả xã hội một cách hiệu quả nhất.
Mặc dù vậy, việc xác định mức độ, liều lượng và cách thức can thiệp của Nhà nước vào kinh tế vẫn đang là một bài toán khó đối với rất nhiều nước. Với nước ta vấn đề còn phức tạp hơn, vì do hoàn cảnh riêng nên chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy ngoài vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường để phát huy những ưu thế và khắc phục mặt traí của nó, Nhà nước còn phải định hướng nó phát triển theo mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế đến tận giai đoạn hiện nay vẫn chưa có một cơ chế quản lý nào như vậy. Tất nhiên là nếu có một cơ chế nào như vậy thì chỉ thuận lợi cho việc định hướng và học tập những bài học kinh nghiệm chứ không thể bệ nguyên cái cơ chế đó vào hoàn cảnh nước ta được. Do đó đòi hỏi các nhà kinh tế cần phát huy hết năng lực, tìm tòi, sáng tạo để đề ra một phương thức quản lý tối ưu nhất của Nhà nước đối với nền kinh tế, để vừa phát triển kinh tế vừa đảm bảo cho xã hội ngày càng công bằng và văn minh hơn.
Chính vì để nâng cao sự hiểu biết của mình về vấn đề nêu trên nên em đã chọn đề tài "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay".
B - Giải quyết vấn đề
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước:
1 - Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
Thực tế cho thấy, trong hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên, công xã nguyên thuỷ, chưa có Nhà nước. Trong thời kỳ này chưa tồn tại giai cấp và do vậy chưa thể tồn tại nhà nước. Xã hội sống thành bầy đàn từ thị tộc đến bộ lạc rồi đến bộ tộc. Của cải trong xã hội sản xuất ra là của cải chung và mọi người đều được hưởng. Nhưng khi có sự phát triển của lực lượng sản xuất, sản phẩm được tạo ra nhiều hơn và do đó trong xã hội có nhiều của cải dư thừa. Những người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc, bộ tộc đã chiếm những của cải chung của xã hội làm của riêng. Trong xã hội có sự tư hữu về tư liệu sản xuất và có sự phân hóa thành kẻ giầu, người nghèo. Mâu thuẫn và xung đột giai cấp trong xã hội bắt đầu xuất hiện. Để bảo vệ quyền lợi của mình, các thế lực nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra một bộ máy sử dụng bạo lực để chấn áp, tiêu diệt các thế lực khác. Cùng với thời gian, bộ máy ấy được hoàn thiện và trở thành nhà nước. Như vậy Nhà nước ra đời từ nguyên nhân kinh tế, nó là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa trong xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong bất kỳ giai đoạn nào, Nhà nước đều có vai trò kinh tế của mình nhưng mức độ và hình thức biểu hiện ở mỗi giai đoạn có sự khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất ra. Thời kỳ này, của cải được làm ra bởi những người nô lệ dưới sự điều khiển, chỉ huy của giai cấp chủ nô nhưng lượng của cải ấy không được "phân phối " mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Sang thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải sản xuất ra mà còn đứng ra tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích, quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt động diễn ra một cách tự phát.
Vào khoảng thế kỷ XV, CNTB được hình thành ở giai đoạn hình thành và phát triển này giai cấp tư sản dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực Nhà nước tư bản non trẻ thực hiện phương thức tích luỹ nguyên thuỷ. Sau đó nhờ việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh đòi hỏi tất yếu nảy sinh cơ chế thị trường.
Từ sau năm 1917, với sự ra đời của Liên Bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết và sau năm 1945 là sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới, trong nền kinh tế thế giới còn có nền kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hóa tập chung. Trong cơ chế này, Nhà nước là người quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và thông qua một loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Kết quả nền kinh tế các nước này rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và phải chuyển sang cơ chế thị trường, phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước.
2 - Tính tất yếu khách quan của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế:
a - Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta:
* Cơ chế cũ và những khuyết tật của nó:
Cơ chế cũ là cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với những đặc trưng:
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hóa các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm.
Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng không chịu trách nhiệm gì đối với quyết định của mình.
Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán chỉ là hình thức. Tất cả những điều trên dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gianvà kém năng động dần đến đội ngũ quản lý năng lực kém, phong cách thì quan liêu cửa quyền.
*Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới.
Sau ngày giải phóng miền Nam nền kinh tế nước ta cũng tồn tại một lúc cả 3 loại hình kinh tế: Kinh tế tự túc, tự cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế hàng hóa. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng ngày nay các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều. Việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực như sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề thu nhập nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Đến cuối những năm 1980 giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Do vậy tại Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
b - Cơ chế thị trường và những khuyết tật của nó:
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hóa đối với sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường. Nói đến cơ chế thị trường trước hết là phải nói đến các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường là hàng và tiền, người bán và người mua hàng hóa. Từ đó hình thành các quan hệ hàng - tiền, mua - bán, cung cầu và giá cả hàng hóa. Nói cơ chế thị trường là nói môi trường cạnh tranh. ở đây diễn ra sự ganh đua, cọ sát giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần lợi cho mình. Trong cơ chế thị trường động lực hoạt động của các thành viên là lợi nhuận, lợi nhuận có tác dụng lôi kéo các doanh nghiệp vào lĩnh vực mà xã hội cần và rút khỏi lĩnh vực sản xuất khi xã hội không cần. Cơ chế thị trường dùng lỗ, lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản.
Đặc trưng của cơ chế thị trường là tự vận động theo những quy luật vốn có của nó: Như quy luật giá trị; Quy luật cung - cầu; Quy luật lưu thông tiền tệ. Các quy luật này có vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường.
Việc áp dụng cơ chế thị trường ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã cho thấy những hiệu quả tích cực của nó trong việc phát triển kinh tế. Qua đó có thể khái quát một số ưu điểm của cơ chế thị trường như sau:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hóa.
Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội
Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó, ngoài những mặt tốt của cơ chế thị trường đối với việc phát triển kinh tế thì chúng ta cũng phải gánh chịu những hậu quả do khuyết tật của nó mang lại như:
Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có những hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hóa giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người.
Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm pháp, thất nghiệp thấp và công việc ăn làm đầy đủ.
Vì vậy để hạn chế được những khuyết tật thì ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước.
c - Vai trò kinh tế của nhà nước:
* Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì ? bằng cách nào ? tiêu thụ ở đâu trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời là mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Khác với doanh nghiệp, Nhà nước không theo đuổi mục tiêu của các doanh nghiệp là lợi nhuận mà theo đuổi mục tiêu chung của các dân tộc là dân giàu nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc, đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội.
Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước quản lý và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh. Thực chất của các định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về lợi ích chung của các dân tộc. Để hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế, Nhà nước cần có:
+ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn.
+ Kế hoạch hoá định hướng.
* Nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cần và đủ. Nhà nước phải chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng - quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để làm được điều đó Nhà nước phải:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hóa nền kinh tế.
+ Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Đa dạng hóa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
+ ổn định về chính trị và xã hội.
* Nhà nước phải thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng - hiệu quả để tạo ra động lực sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng thì sự hoạt động của quy luật kinh tế vốn có của nó càng dẫn đến sự phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp và có thể đe doạ sự ổn định về mặt chính trị. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả.
* Nhà nước cần can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết.
Định hướng, tạo môi trượng, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước. Quá trình thực hiện các chiến lược đó chịu ảnh hưởng của cơ chế cung - cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của quan hệ kinh tế - quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn thì những "cú sốc" làm chệch mục tiêu là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra, nhằm đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
* Nhà nước có vai trò quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý
Nhà nước chính là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Trong cương lĩnh quốc gia: về đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu nguồn lực này để phân bổ sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý. Về đối ngoại, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền, đặc lợi trong lòng đất, vùng trời và vùng biển.
II - Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
1 - Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với sự giải quyết những vấn đề xã hội:
Nước ta đi lên XHCN chỉ nhằm mục tiêu lớn nhất là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đồng thời để phát triển kinh tế chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên kinh tế thị trường lại đưa đến sự phân hoá giàu nghèo và nhiều vấn đề xã hội nan giải cần được giải quyết. Vì vậy để vừa phát triển kinh tế vừa giải quyết được những vấn đề xã hội, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, xã hội với kinh tế. Ngoài mục tiêu ổn định chính trị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển sản xuất, Đảng và Nhà nước còn đề ra biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội, từ công ăn việc làm đến đời sống văn hoá, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, công bằng xã hội. Muốn vậy Nhà nước phải:
* Phải kế hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.
* Thực hiện công bằng xã hội, lối sống văn hoá, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống.
* Chăm lo nhu cầu giáo dục, văn hoá cho nhân dân.
* Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội.
* Giảm thiểu và khắc phục cũng như đẩy lùi tệ nạn xã hội.
2 - Phát triển kinh tế Việt Nam phải là phát triển bền vững:
Nền kinh tế thị trường do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải phát triển bền vững. Muốn vậy thì phải hạn chế được những thăng trầm có tính chu kỳ bằng cách Nhà nước phải đề ra những chính sách ổn định kinh tế để chống lại những dao động không mong muốn của nền kinh tế. Đó là một mặt Nhà nước kiểm soát và hỗ trợ sự phát triển của bản thân nền kinh tế, mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đẩy tiến bộ xã hội, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức ổn định.
3 - Tốc độ phát triển kinh tế cao:
Tốc độ phát triển kinh tế không những phải ổn định mà còn phải cao thì mới có thể đảm bảo đưa nền kinh tế nước ta theo kịp các nước trên thế giới.Để cho tốc độ phát triển kinh tế ở mức cao cần ổn định và phát triển sản xuất, nâng dần nhịp dộ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Muốn đạt được điều này ngoài việc ưu tiên phát triển những ngành trọng điểm, những dịa bàn và những cơ sở sớm đưa lại hiệu quả cao, đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác với nước ngoài ... Nhà nước còn phải có biện pháp diều chỉnh việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm - là các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất bao gồm: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động, tư bản, công nghệ - sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Hơn nữa, về mặt lâu dài để cho tốc phát triển trong tương lai luôn ở mức cao còn cần phải bồi bổ, phát triển các nguồn lực khan hiếm nhằm làm tăng giới hạn khả năng sản xuất.
4 - Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nếu trước đây kinh tế tư nhân, cá thể không được thừa nhận thì nay khuyến khích, phát triển mạnh mẽ. Đây là một thay đổi cực kỳ quan trọng. Trong công nghiệp theo Nghị quyết X của Bộ chính trị, đã thực hiện chính sách khoán và hợp đồng giao nộp sản phẩm. Nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và tự do bán sản phẩm trên thị trường.
Nhà nước cũng đã xoá bỏ các khoản bao cấp trực tiếp và tạo quyền tự chủ về tài chính, về sản xuất kinh doanh, cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chuyển sang hạch toán đầy đủ theo hướng lời ăn, lỗ chịu. Nhà nước cũng ban hành nghị quyết về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước, đưa ra chủ trương làm thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của kinh tế quốc doanh - kinh tế Nhà nước, làm kinh tế quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
5 - Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta cần tới vai trò quản lý của Nhà Nước.
Nền kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường không làm giảm nhẹ sự quản lý của Nhà nước, vô luật là Nhà nước TBCN hay Nhà nước XHCN. Hơn nữa chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN càng đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước.
Vấn đề là phương thức quản lý của Nhà nước như thế nào để vận dụng đầy đủ các quy luật và yêu cầu khách quan của bản thân nền kinh tế thị trường, nhưng lại phải đảm bảo định hướng XHCN, không để cho nền kinh tế vận động tự phát đi theo con đường TBCN.
Kinh tế thị trường là tự do làm giàu trong