Trong xu thế mở cửa và hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nhu cầu về xuất nhập khẩu
hàng hóa ngày một tăng cao đã mở ra triển vọng phát triển cho ngành hàng hải quốc tế nói
chung và ngành hàng hải Việt Nam nói riêng.
Với lợi thế về địa lý, có đường bờ biển kéo dài hơn 3.260 km và nằm gần các tuyến hàng
hải quốc tế quan trọng, Việt Nam hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế
biển nói chung và ngành hàng hải nói riêng.
Hiện tại Việt Nam có 266 cảng biển, bố trí tại 24 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó có
nhiều cảng biển tiềm năng và lợi thế lớn như Lạch Huyện (Hải Phòng), Vân Phong (Khánh
Hòa) Tuy nhiên, các cảng biển Việt Nam bố trí chưa hợp lý, năng lực của các cảng có hạn
và ít cảng nước sâu để đón tàu có trọng tải lớn (Theo đánh giá của các chuyên gia). Vì vậy,
trong thời gian tới, nhiện vụ quan trọng của Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam-đơn vị đầu tầu
trong ngành hàng hải Việt Nam, là phải đẩy mạnh phát triển đội tàu và năng lực cảng biển
cũng như dịch vụ hàng hải, cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, thị trường kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến thuận lợi cho sự
phát triển của ngành hàng hải Việt Nam. Theo dự kiến, năm 2010 sẽ có khoảng 200 triệu tấn
hàng hóa thông qua các cảng biển Việt Nam. Đến năm 2020, số lượng này có thể lên đến 350
triệu tấn. Giá cước vận tải cũng tăng từ 10%-20% so với năm 2006. Đây sẽ là cơ hội kinh
doanh tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam.
132 trang |
Chia sẻ: truongthanhsp | Lượt xem: 3988 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận chuyển dầu bằng tàu biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
1
Phần 1
GIỚI THIỆU VỀ NGÀNH VẬN CHUYỂN TÀU BIỂN
Chƣơng 1:
VAI TRÕ CỦA NGÀNH VẬN CHUYỂN BẰNG TÀU BIỂN
Trong xu thế mở cửa và hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nhu cầu về xuất nhập khẩu
hàng hóa ngày một tăng cao đã mở ra triển vọng phát triển cho ngành hàng hải quốc tế nói
chung và ngành hàng hải Việt Nam nói riêng.
Với lợi thế về địa lý, có đường bờ biển kéo dài hơn 3.260 km và nằm gần các tuyến hàng
hải quốc tế quan trọng, Việt Nam hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế
biển nói chung và ngành hàng hải nói riêng.
Hiện tại Việt Nam có 266 cảng biển, bố trí tại 24 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó có
nhiều cảng biển tiềm năng và lợi thế lớn như Lạch Huyện (Hải Phòng), Vân Phong (Khánh
Hòa)Tuy nhiên, các cảng biển Việt Nam bố trí chưa hợp lý, năng lực của các cảng có hạn
và ít cảng nước sâu để đón tàu có trọng tải lớn (Theo đánh giá của các chuyên gia). Vì vậy,
trong thời gian tới, nhiện vụ quan trọng của Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam-đơn vị đầu tầu
trong ngành hàng hải Việt Nam, là phải đẩy mạnh phát triển đội tàu và năng lực cảng biển
cũng như dịch vụ hàng hải, cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, thị trường kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến thuận lợi cho sự
phát triển của ngành hàng hải Việt Nam. Theo dự kiến, năm 2010 sẽ có khoảng 200 triệu tấn
hàng hóa thông qua các cảng biển Việt Nam. Đến năm 2020, số lượng này có thể lên đến 350
triệu tấn. Giá cước vận tải cũng tăng từ 10%-20% so với năm 2006. Đây sẽ là cơ hội kinh
doanh tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc biệt ngành vận chuyển đường biển còn đóng vai trò to lớn trong việc thông thương
giữa các quốc gia trên thế giới. Đa số các mặt hàng xuất nhập khẩu đều được vận chuyển
bằng đường biển.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
2
Chƣơng 2:
CÁC LOẠI HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN – VẬN CHUYỂN DẦU
A/ HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG TÀU BIỂN.
Ngày nay vận chuyển bằng đường biển là một giải pháp hữu hiệu cho tất cả các loại hàng
hóa buôn bán quốc tế trên thế giới. Do đặc điểm của tàu là chở được một số lượng lớn hàng
hóa và cước phí được coi là thấp nhất trong các loại phương tiện chuyên chở. Với sự phát
triển của khoa học kĩ thuật và đặc điểm của từng loại hàng chuyên chở thì hiện nay người ta
đã chế tạo ra những loại tàu chuyên dụng dùng để chở một hay một nhóm hàng hóa có tính
chất giống nhau như: tàu chở hàng rời (bao gồm các loại hàng nhu ngũ cốc các sản phẩm đã
được chế biến), tàu chở hàng khí hóa lỏng, khí ga, tàu dầu, tàu container, tàu bách hóa, tàu
chở ôtô
Do đặc điểm của vận chuyển bằng tàu biển là thời gian vận chuyển lâu do tốc độ của tàu
vẫn còn chậm, hơn nữa còn phụ thuộc rất lớn vào thời tiết nên một số mặt hàng có thời hạn
sử dụng thì hay được đóng vào các container lạnh chế tạo riêng cho những mặt hàng này.
Phân loại tàu theo hàng hóa chuyên chở
1. Tàu bách hóa- General cargo ships
Chủ yếu dùng để vận chuyển hàng tạp hóa, nó phát triển sớm nhất, đã từng chiếm vị trí
chủ đạo trong vận tải biển. Tuy nhiên vài thập niên gần đây do sự phát triển mạnh của các
loại tàu khác làm cho số lượng tàu bách hóa cũng như hàng hóa mà nó chuyên chở giảm
mạnh. Tàu boong két đa năng (Munltipurpose tweendecker) cũng là một loại tàu bách
hóa có thể chuyên chở nhiều loại bách hóa khác nhau.
2. Tàu chở hàng thể rắn- Bulk carrier
Dùng để chuyên chở hàng rời thể rắn gồm tàu hàng rời thể rắn nói chung
(Bulk carrier), tàu hàng hạt (grain carrier), tàu chở than rời (bulk coal carrier), tàu
dolomite rời (bulk dolomite carrier), tàu chở xi măng (cement carrier), tàu chở bôxít
(bauxite carrier) tàu chở cát (sand carrier)
3. Tàu chở chất lỏng (tàu bồn)-Tanker
Dùng để chở xô các loại chất lỏng như tàu chở dầu thô (crude oil tankers), tàu chở dầu
thô rất lớn VLCC (very large Crude oil Carrier). Tàu chở dầu thô cực lớn ULCC (Ultra
Large Crude oil Carrier), tàu nhựa đường (asphant tankes,bitumen tanker), tàu chở dầu
thành phẩm (product tanker) tàu hóa chất (chemical tanker), tàu chở khí đốt hóa lỏng
(LPG – Liquefied Petroleum Gas carriers), tàu chở khí hóa lỏng tự nhiên
4. Tàu chở hàng kiện tiêu chuẩn – Unitized cargo carrier
Là loại tàu chở các hàng kiện tiêu chuẩn như tàu container, tàu chở xà lan, tàu ro/ro
5. Các loại tàu chuyên dụng
Gồm có tàu chở otô PCC (pure car carriers), tàu chở sản phẩm thép, tàu chở bột giấy, tàu
chở giấy báo, tàu chở gỗ xẻ, tàu chở động vật tươi sống
6. Các loại đa năng
Gốm có các tàu hỗn hợp container/palet, tàu hỗn hợp quặng dầuCác loại tàu chở được
hỗn hợp hai loại hàng trở lên gọi là tàu đa năng dùng cho nhiều mục đích khác nhau.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
3
B. VẬN CHUYỂN DẦU:
B.1 GIỚI THIỆU VỀ DẦU
Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại
trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu
cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành
phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên
liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của
ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng
88% dầu thô dùng để sản xuất năng lượng, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là
nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một
I. Thành phần:
Các thành phần hóa học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp chưng cất phân
đoạn. Các sản phẩm thu được từ việc lọc dầu có thể kể đến là dầu hỏa, benzen, xăng, sáp
parafin, nhựa đường v.v.
Một cách chính xác thì dầu mỏ là hỗn hợp của các hiđrôcacbon, là hợp chất của hiđrô và
cacbon.
Trong điều kiện thông thường, bốn alkan nhẹ nhất — CH4 (mêtan), C2H6 (êtan), C3H8
(prôpan) và C4H10 (butan) — ở dạng khí, sôi ở nhiệt độ -161.6°C, -88.6°C, -42°C, và -0.5°C
tương ứng (-258.9°, -127.5°, -43.6°, và +31.1°F).
Các chuỗi trong khoảng C5-7 là các sản phẩm dầu mỏ nhẹ, dễ bay hơi. Chúng được sử
dụng làm dung môi, chất làm sạch bề mặt và các sản phẩm làm khô nhanh khác. Các chuỗi
từ C6H14 đến C12H26 bị pha trộn lẫn với nhau được sử dụng trong đời sống với tên gọi là
xăng. Dầu hỏa là hỗn hợp của các chuỗi từ C10 đến C15, tiếp theo là dầu điêzen/dầu sưởi (C10
đến C20) và các nhiên liệu nặng hơn được sử dụng cho động cơ tàu thủy. Tất cả các sản phẩm
từ dầu mỏ này trong điều kiện nhiệt độ phòng là chất lỏng.
Các dầu bôi trơn và mỡ (dầu nhờn) (kể cả Vadơlin) nằm trong khoảng từ C16 đến C20.
Các chuỗi trên C20 tạo thành các chất rắn, bắt đầu là sáp parafin, sau đó là hắc ín và nhựa
đường bitum.
Khoảng nhiệt độ sôi của các sản phẩm dầu mỏ trong chưng cất phân đoạn trong điều kiện
áp suất khí quyển tính theo độ C là:
Xăng ête: 40-70°C (được sử dụng như là dung môi)
Xăng nhẹ: 60-100°C (nhiên liệu cho ô tô)
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
4
Xăng nặng: 100-150°C (nhiên liệu cho ô tô)
Dầu hỏa nhẹ: 120-150°C (nhiên liệu và dung môi trong gia đình)
Dầu hỏa: 150-300°C (nhiên liệu )
Dầu điêzen: 250-350°C (nhiên liệu cho động cơ điêzen/dầu sưởi)
Dầu bôi trơn: > 300°C (dầu bôi trơn động cơ)
Các thành phần khác: hắc ín, nhựa đường, các nhiên liệu khác
II. Khai thác:
Muốn khai thác dầu, người ta khoan những lỗ khoan gọi là giếng dầu. Khi khoan trúng lớp
dầu lỏng, dầu sẽ tự phun lên do áp suất cao của khí dầu mỏ. Khi lượng dầu giảm thì áp suất
khí cũng giảm, người ta phải dùng bơm hút dầu lên hoặc bơm nước xuống để đẩy dầu lên.
III. Phân loại
Ngành công nghiệp dầu mỏ phân chia "dầu thô" theo khu vực mà nó xuất phát (ví dụ
"West Texas Intermediate" (WTI) hay "Brent") thông thường theo tỷ trọng và độ nhớt tương
đối của nó ("nhẹ", "trung bình" hay "nặng"); các nhà hóa dầu còn nói đến chúng như là
"ngọt", nếu nó chứa ít lưu huỳnh, hoặc là "chua", nếu nó chứa đáng kể lưu huỳnh và phải
mất nhiều công đoạn hơn để có thể sản xuất nó theo các thông số hiện hành.
Các thùng (barrel) tiêu chuẩn trên thế giới là:
Hỗn hợp Brent, bao gồm 15 loại dầu mỏ từ các mỏ thuộc hệ thống mỏ Brent và
Ninian trong khu vực lòng chảo Đông Shetland trên biển Bắc. Dầu mỏ được đưa vào
bờ thông qua trạm Sullom Voe ở Shetlands. Dầu mỏ sản xuất ở châu Âu, châu Phi và
dầu mỏ khai thác ở phía tây của khu vực Trung Cận Đông được đánh giá theo giá của
dầu này, nó tạo thành một chuẩn (benchmark) đánh giá dầu.
West Texas Intermediate (WTI) cho dầu mỏ Bắc Mỹ.
Dubai được sử dụng làm chuẩn cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương của dầu mỏ
Trung Cận Đông.
Tapis (từ Malaysia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nhẹ Viễn Đông).
Minas (từ Indonesia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nặng Viễn Đông).
Giỏ OPEC bao gồm:
o Arab Light Ả Rập Saudi
o Bonny Light Nigeria
o Fateh Dubai
o Isthmus Mexico (không OPEC)
o Minas Indonesia
o Saharan Blend Algérie
o Tia Juana Light Venezuela
OPEC cố gắng giữ giá của giỏ Opec giữa các giới hạn trên và dưới, bằng cách tăng hoặc
giảm sản xuất. Điều này rất quan trọng trong phân tích thị trường. Giỏ OPEC, bao gồm hỗn
hợp của dầu thô nặng và nhẹ là nặng hơn cả Brent và WTI.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
5
IV. Tầm quan trọng kinh tế của dầu mỏ:
Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản
xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu
cũng được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo (plastic) và nhiều sản
phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen".
Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng
(barrel) (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của
ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế
với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm
2003. Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ
lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi (262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq
(115,0 tỉ thùng) kế đến là ở Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela.
Nước khai thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga
(420 triệu tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt
Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba
triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20
triệu tấn/năm.
Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột
Trung Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979.
V. Các sản phẩm của dầu:
Chất lượng của các sản phẩm được tinh chế từ dầu phụ thuộc vào cấu trúc của từng loại
dầu thô cũng như phương pháp tốt nhất để chưng cất chúng. Việc chưng cất dầu thô được
tiến hành như sau:
1. Các tháp chưng cất phân đoạn:
Người ta cho dầu thô (sau khi đã được xử lí) đi qua ống chưng cất, tại đó nhiệt độ được
hâm nóng đến 7500F. Sau khi ra khỏi ống chưng cất dầu thô được nạp vào tháp chưng cất
phân đoạn. Tại đây nó tách thành các loại chất lỏng khác nhau và hơi Hydro Cacbon mà
chính chúng cấu thành dầu thô bằng cách dựa vào các điểm sôi khác nhau của các phân
đoạn khác nhau. Phân đoạn nhẹ hơn sẽ đi lên cao qua hàng loạt các van kiểu nấm đặt ở
các khay mà ở đó nó sẽ ngưng tụ. Phân đoạn nặng hơn cũng theo quá trình tương tự ở
phần thấp hơn của tháp. Những phân đoạn ở đỉnh của tháp là những phân đoạn nhẹ chẳng
hạn như thể Ligroin, xăng. Ở bên dưới là dầu hỏa và các sản phẩm tương tự. Tiếp dưới
nữa là những sản phẩm chưng cất trung bình như dầu ga-doan. Ở phần đáy tháp, còn lại
là dầu bôi trơn và các chất nặng mà từ đó tạo ra được dầu nặng (FO) và nhựa đường.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
6
Hệ thống chưng cất phổ biến trong công nghiệp chế biến dầu là hệ thống chưng chân
không - áp suất thường. Hệ thống này chia làm 2 giai đoạn:
- Chưng cất ở áp suất thường.
- Chưng chân không.
Chưng ở áp suất thường
Dầu thô ở bể chứa (1) được bơm qua các thiết bị trao đổi nhiệt (3) nâng nhiệt độ lên
180
o
C rồi vào lò đốt (4), đốt bằng dầu mazut. Khi dầu lên đến nhiệt độ 320oC 325oC
thì đưa qua tháp chưng (5). Ở đó dầu nhẹ bay hơi lên, tiếp xúc với dầu lỏng đi xuống thực
hiện quá trình trao đổi nhiệt, làm các cấu tử dễ bay hơi tiếp tục bay hơi, càng xuống thấp,
dầu lỏng càng nhiều cấu tử khó bay hơi.Hơi xăng ở đỉnh tháp chưng ra, sau khi qua thiết bị
ngưng tụ (6).
Sơ đồ lưu trình công nghệ chưng cất dầu mỏ ở áp suất thường.
1: Bể chứa dầu thô;
2: Bơm;
3: Thiết bị trao đổi nhiệt;
4: Lò đốt; 5: Tháp chưng;
6: Thiết bị ngưng tụ;
7: Thùng chứa xăng.
Từ tháp chưng ở áp suất thường lấy ra được một số sản phẩm:
- Trên cùng là xăng lấy ra ở đỉnh dùng làm nhiên liệu đốt trong.
- Rồi đến lydroin là loại dầu dùng làm nhiên liệu cho động cơ phản lực.
- Dầu hỏa lấy được trong khoảng nhiệt độ 180oC 280oC
- Dưới nữa là dầu nặng ( dầu Xôla ) khoảng nhiệt độ 250oC 350oC dùng cho
động cơ Diezen, cho crắcking.
- Cuối cùng là madút, lấy ở đáy tháp chưng với nhiệt độ là 275oC.
Khoảng nhiệt độ sôi của các sản phẩm dầu mỏ trong chưng cất phân đoạn trong điều kiện
áp suất khí quyển tính theo độ C là:
Sản phẩm của dầu Nhiệt độ sôi Ứng dụng
Xăng ête 40-70°C sử dụng như là dung môi
Xăng nhẹ 60-100°C
nhiên liệu cho ô tô
Xăng nặng 100-150°C
Dầu hỏa nhẹ 120-150°C
nhiên liệu và dung môi trong
gia đình
Dầu hỏa 150-300°C nhiên liệu
Dầu điêzen 250-350°C
nhiên liệu cho động cơ
điêzen/dầu sưởi
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
7
Dầu bôi trơn > 300°C dầu bôi trơn động cơ
Các thành phần khác: hắc ín, nhựa đường, các nhiên liệu khác
2. Phương pháp Crackinh:
Trong khi ở quá trình trưng cất được tóm tắt như là quá trình mà qua đó dầu thô được
tách thành các loại phân đoạn khác nhau thì Crackinh là quá trình chuyển hóa hay quá
trình thay đổi lại cấu trúc của các loại Hydro Cacbon riêng biệt đang được sử dụng lam
nhiên liệu. Crackinh được sử dụng để sản xuất số lượng lớn hơn các phân đoạn nhẹ so
với số lượng có thể chỉ tạo được qua chưng cất.
Phương pháp Crackinh nhiệt:
Phương pháp Crackinh này sử dụng nhiệt độ cao và áp suất cao để bẻ gãy các
Hydro Cacbon được sử dụng như nhiên liệu. Các phân đoạn lớn được bẻ gãy thành
những phân tử nhỏ và sau đó để các mảnh vỡ tự sắp xếp bên trong tháp phân đoạn
Phương pháp Crackinh có xúc tác:
Sử dụng chất xúc tác để hỗ trợ quá trình Crackinh. Chất xúc tác là một chất hỗ trợ
quá trình bẻ gãy các phân tử lớn. Làm như vậy sẽ loại trừ được nhiệt độ cao và áp suất
cao đòi hỏi ở các nhà máy Crackinh nhiệt. Xăng và các sản phẩm khác cùng loại của
nhà máy này có chất lượng rất cao.
Nói chung quá trình chưng cất được thể hiện như hàng loạt quá trình phân loại và bẻ gãy,
tiếp theo là quá trình làm sạch để tạo ra những sản phẩn có chất lượng cao. Tiếp theo, các
sản phẩm này được pha trộn và xử lý hóa học để làm cho phù hợp với những tính chất
riêng xác định.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
8
B.2 ĐẶC TÍNH CƠ BẢN CỦA DẦU
Để đảm bảo khai thác tàu được an toàn và có hiệu quả điều quan trọng đối với sĩ quan
cũng như toàn bộ thuyền viên trên tàu là phải nắm vững tất cả các đặc tính của loại hàng
mà tàu mình chuyên chở. Do đó việc am hiểu các đặc tính của dầu mỏ rất quan trọng.
I/ Đặc điểm của dầu mỏ:
Dầu mỏ có một số đặc tính như sau:
1. Tính dễ cháy:
Nguy cơ cháy là do hơi dầu. Tất cả các sản phẩm dầu đều có tính bay hơi. Đôi khi
chúng ta không thể thấy hoặc ngửi được hơi dầu nhưng chúng vẫn tồn tại. Khi nhiệt độ
tăng, hàm lượng hơi dầu đạt được một tỉ lệ nào đó có trong không khí sẽ cháy. Nhiệt độ lúc
này được gọi là nhiệt độ đánh lửa của dầu. Tính dễ cháy của dầu phụ thuộc vào nhiệt độ
đánh lửa (xem bảng nhiệt độ đánh lửa).
Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng và một tia lửa tác động thì hỗn hợp hơi dầu và không khí
không chỉ đánh lửa mà bốc cháy. Nhiệt độ lúc này được gọi là điểm cháy.
Nếu nhiệt độ lại tiếp tục tăng, dầu sẽ tự cháy. Nhiệt độ lúc này gọi là nhiệt độ tự cháy.
Người ta phân cấp nhiệt độ đánh lửa như sau:
Đánh lửa cấp 1: tđl < 28
0
C
Đánh lửa cấp 2: tđl = 28
0
– 650C
Đánh lửa cấp 2: tđl > 65
0
C
Loại dầu Tỉ trọng Hệ số dãn nở Nhiệt độ đánh
lửa
Nhiệt độ sôi
Dâu xăng
Dầu hỏa
Dầu diezen
Dầu nặng (FO)
Dầu bôi trơn
Dầu thô
0.6 - 0.74
0.74 - 0.82
0.8 – 0.88
> 0.89
> 0.89
0.85 – 0.95
0.0012
0.00096
0.0009
0.00078
0.00061
0.00082
< 28
0
28
0
– 450
> 45
0
> 80
0
> 120
0
< 150
0
150
0
– 3000
250
0
– 3000
> 300
0
> 300
0
2. Tính khuếch tán và nổ:
Mọi sản phẩm dầu đều có tính khuếch tán. Lúc khuếch tán, hàm lượng dầu ở thể khí
đến một giới hạn nào đó sẽ phát nổ. Chẳng hạn đối với xăng, giới hạn nổ từ 1% - 6%. Tính
khuếch tán của xăng rất mạnh, hàm lượng tới 10% trên bề mặt sau 30 phút.
Khi vận chuyển dầu mỏ chúng ta phải hết sức chú ý hàm lượng dầu trong không khí.
Nếu nó đạt tới gần giới hạn nổ thì người vận tải phải có biện pháp ngăn chặn mọi yếu tố có
thể làm phát sinh tia lửa kể cả nguồn yếu. Ta có thể tham khảo một số giới hạn nổ của một
số chất khí và thể lỏng:
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
9
Tên chất lỏng hoặc khí Giới hạn nổ khi Trộn với không khí
Dưới (%) Trên (%)
Mêtan (CH4)
Etan (C2H6)
Propan (C3H8)
Butan (C4H10)
Heptan (C5H12)
Hecxan (C6H14)
Etilen (C2H4)
Propen (C3H6)
Buten (C4H8)
Benzen
Dầu xăng
Dầu hỏa
Dầu diezen
Dầu thô
5,3
3,2
2,4
1,6
1,4
1,2
3,0
2,0
1,7
1,5
1,0
1,4
1,4
1,5
14,0
12,5
9,5
8,5
7,8
8,9
29,0
11,0
9,0
8,0
6,0
7,5
6,0
11,0
3. Tính cảm ứng điện:
Khi dầu và sản phẩm dầu chạy trong ống sẽ phát sinh tĩnh điện. Nếu như tàu dầu không
được nối đất với cầu tàu thì sẽ nảy sinh hiện tượng phóng tĩnh điện tạo ra tia lửa làm khí
dầu phát nổ.
Do vậy, khi nhận hay trả dầu phải dùng dây dẫn điện nối thân tàu với bờ (tiếp đất). Mặc
dù nước biển là chất dẫn điện nhưng tàu biển bị cách điện bởi lớp sơn nên dây dẫn nối bờ
là hết sức quan trọng để ngăn chặn hiện tượng phóng tĩnh điện trong ống.
4. Tính độc hại:
Các sản phẩm dầu có tính độc hại, có loại có tính độc rất cao. Nếu như chẳng may nuốt
phải dầu, người bị nạn sẽ có cảm giác khó chịu, nôn, mửa và gây nhiều hậu quả nghiêm
trọng đối với phổi. Nếu thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm dầu thì dẫn đến hậu
quả là mắt cay, da bị dị ứng, gây một số bệnh da liễu.
Ngoài ra, trong hơi dầu có rất nhiều khí độc hại như: các khí hydrocacbon, khí thơm
như Benzen và đặc biệt là Hydro sunphide. Các nhà khoa học cho biết rằng cơ thể con
người có thể chịu đựng được nồng độ hơi dầu trong một khoảng thời gian ngắn. Sức chịu
đựng này kí hiệu là TLV (Threshold Limit Value).
Ví dụ như TLV của khí Hydro sunphide là 10 ppm (parts per million).
Nếu như nồng độ khí hydro sunphide cao hơn TLV:
50 – 100 ppm : sau 1h, mắt, đường hô hấp bị ảnh hưởng.
200 – 300 ppm : sau 1h, mắt bị hoa, đường hô hấp bị ảnh hưởng.
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP VẬN CHUYỂN DẦU BẰNG TÀU BIỂN
10
500 – 700 ppm : trong vòng 15m bị choáng, nhức đầu buồn nôn. Từ 30 – 60m sau,
hôn mê và có thể tử vong.
1000 – 2000 ppm : suy sụp lập tức và ngừng thở.
Mùi của hơi dầu rất đa dạng. Trong một số trường hợp, chúng không mùi và càng nguy
hiểm hơn khi hỗn hợp hơi ấy lại có khí Hydro sunphide.
5. Tính