Đề tài Vấn đề con đường cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Lịch sử cách mạng của nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại nhưng không ai có sự nghiệp lừng lẫy như Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại, được thế giới ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh.

doc8 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1824 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề con đường cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh Đề tài: Vấn đề con đường cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Lời nói đầu Lịch sử cách mạng của nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại nhưng không ai có sự nghiệp lừng lẫy như Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại, được thế giới ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh. Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Người lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà lí luận sáng tạo của chủ nghĩa Mác-LêNin được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lòng ca ngợi và khâm phục. Thực tế lịch sử gần 80 năm qua đã chứng tỏ: thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế khác cũng cho thấy: khi nào chúng ta xa rời hoặc quán triệt không đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì sẽ không tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Cùng với chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa với toàn nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu và chính khách trên thế giới đã đánh giá tầm vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhãn quan sáng suốt nhìn xa thấy rộng của Người bắt nguồn từ nhận thức sâu sắc về những lực lượng thúc đẩy sự biến đổi có tính chất bùng nổ nhất của lịch sử ở những bước ngoặt có tính chất cách mạng nhất. Ðồng chí Gớt Hôn - Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Mỹ viết: "Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất hiện đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử, với những tư tưởng và ý kiến đúng. Chính vậy mà đồng chí đã làm ra lịch sử". Phần 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày. Ngày 3-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường kách mệnh (1927). Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ). Những năm tuổi trẻ bôn ba nước ngoài Người đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Muốn giành được độc lập không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản, đó là con đường kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ đó chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối mở ra một thời đại mới vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc và thời đại Hồ Chí Minh. Người đã có công trong việc truyền bá và vận dụng sáng toạ chủ nghĩa Mác – LêNin vào Việt Nam, vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác-LêNin để đánh thức tiềm năng, tinh thần truyền thống Việt Nam, bồi dưỡng nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Viêt Nam. Người đã xây dựng nhiều tiền đề tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam và đã thống nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở trong nước để sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác- Lê nin được Người vận dụng thành công cho cáh mạng Việt Nam. Người khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại" (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Đó là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa; là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mà hạt nhân trung tâm là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội...". Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"(3). Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Phần 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề giải phóng dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm sau đây: Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản. Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là "một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công "trước hết phải có đảng cách mệnh", "Đảng có vững cách mệnh mới thành công", "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" - đó là chủ nghĩa Lênin. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng của phong trào cách mạng nước ta. Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công-nông. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một, hai người", vì vậy phải đoàn kết toàn dân, "sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong lực lượng đó “công–nông là gốc của cách mạng”, “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. “Trong khi liên lạc giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công-nông mà đi vào thoả hiệp”. Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Cương lĩnh Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928) nêu: “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc có mối liên hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. “Chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vòi…” phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa. Hồ Chí Minh đã nêu: “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước…”. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Năm là, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân. Bạo lực cách mạng: Bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.  Giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, thương lượng, nhượng bộ có nguyên tắc. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân đạo hoà bình. Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc:  “…trường kỳ kháng chiến, địch nhất định thua, ta nhất định thắng… Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau”.  Tự lực cánh sinh là phương châm chiến lược quan trọng của bạo lực cách mạng. Ngay từ năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương... phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng...". Đến tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang". Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Phần 3: Con đường cách mạng Việt Nam dưới sự soi sáng của chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. a) Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2- 1930) đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhấn mạnh chủ trương chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Về phương diện chính trị phải ''Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''. Đó là đường lối chính trị hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hướng vào giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến và định hướng phát trtển theo nội dung và xu thế của thời đại. Phong trào cách mạng nước ta từ Xô viết Nghệ -Tĩnh những năm 1930-1931 đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là quá trình vừa thực hiện, vừa khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, khẳng định tính đúng đắn và bổ sung, phát triển hoàn chỉnh đường lối đó - đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (GPDT). Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương (HNTƯ) họp tháng 11-1939 ở Bà Điểm (Gia Định) đã nêu cao mục tiêu GPDT. Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, sau khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (1-9-1939), tại Đông Dương, thực dân Pháp thủ tiêu mọi quyền dân sinh, dân chủ ít ỏi mà họ buộc phải thực hiện trong những năm 1936-1939, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp càng phát triển gay gắt. Tháng 9-1940 phát xít Nhật chiếm Đông Dương, Nhật và Pháp cùng thống trị Đông Dương, ách áp bức dân tộc càng trở nên nặng nề. Trong bối cảnh đó, HNTƯ tháng 11-1940 cho rằng cách mạng phản đế - cách mạng GPDT cao hơn hết và nêu rõ: Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ sau gần 30 năm hoạt động và lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước từ nước ngoài, ngày 28-1- 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước, cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cao trào GPDT. Tháng 5-1941 HNTƯ họp tại Cao Bằng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Hội nghị đã phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi nổi trên cả nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và cuộc khởi nghĩa của binh lính ở Đô Lương (Nghệ An) (13-1-1941). Trung ương Đảng cho rằng: Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương.   Các nghị quyết HNTƯ (11-1939), (11-1940) và (5-1941) đã phát triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng GPDT. Đó là một hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng trên mấy vấn đề chủ yếu sau đây: Nêu cao nhiệm vụ GPDT, giành độc lập hoàn toàn cho đất nước. Chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù chủ yếu. Nhiệm vụ chống phong kiến đặt ra thực hiện từng bước và phải đặt dưới nhiệm vụ GPDT. Điều đó phù hợp với nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Tạm thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng hái tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát.   Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện mục tiêu GPDT, Đảng chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc. Đó là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11- 1939) thay cho Mặt trận dân chủ trước đó. Tháng 5-1941, HNTƯ quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đó là tổ chức mặt trận có chương trình rõ ràng và hệ thống tổ chức chặt chẽ với các đoàn thể cứu quốc là thành viên và lấy làng, đường phố, nhà máy làm tổ chức cơ sở. Sự liên hiệp các đoàn thể cứu quốc trong Việt Minh là sự thống nhất lực lượng để tranh đấu thực hiện vấn đề độc lập cho đất nước. Việt Minh lấy ngọn cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu. Đó cũng là tổ chức Mặt trận giải quyết vấn đề dân tộc trong nội bộ dân tộc Việt Nam giành quyền độc lập cho xứ sở. Song Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Đảng và Mặt trận Việt Minh đã kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ đoàn kết quốc tế.   Đảng chủ trương xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, cùng với lực lượng chính trị phải coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, giành độc lập. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Trung ương Đảng đã ra lời hiệu triệu hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa đó và đặt vấn đề phải đi tới vũ trang khởi nghĩa. HNTƯ 8, từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc quân, chiến tranh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, đã khẳng định vấn đề khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang. Điều kiện để khởi nghĩa bằng vũ trang là: Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc; Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường khởi nghĩa; Những điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện như quân Đồng minh thắng Nhật hay cách mạng nổ ra ở Pháp, ở Nhật. HNTƯ 8 đã dự liệu những điều kiện để chuẩn bị cho những điều kiện đó phát triển và khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.   Đảng hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và quốc tế để chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng. HNTƯ tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới tình thế và thời cơ để cách mạng tiến lên giành thắng lợi. Đặc biệt HNTƯ tháng 5-1941 đã đự báo Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công của Anh-Mỹ và đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách cho sự chuẩn bị điều kiện chuyển biến cuộc cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình thế giới sẽ biến chuyển ghê gớm làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng. Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, sau HNTƯ 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo sát sự phát triển của tình hình thế giới và trong nước để dự liệu thời cơ cách mạng. Trong tài liệu Lịch sử nước ta do Hồ Chí Minh viết và được Việt Minh tuyên truyền bộ xuất bản tháng 2-1942 ở mục những năm quan trọng, câu kết thúc Người đã dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập.  Khi xác định cuộc cách mạng là cách mạng GPDT nghĩa là phải giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề hình thức tổ chức nhà nước phải xây dựng khi giành được độc lập. HNTƯ tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập Chính phủ Xô Viết công nông binh'' là hình thức chính phủ riêng của dân chúng lao động mà lựa chọn hình thức chính phủ Cộng hoà dân chủ, là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam. Trong Chương trình Việt Minh đã xác định: Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc, cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước nhân dân
Tài liệu liên quan