Đề tài Vấn đề dự báo cung lao động Việt Nam (số lượng và cơ cấu) giai đoạn đến năm 2010

Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người

doc23 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề dự báo cung lao động Việt Nam (số lượng và cơ cấu) giai đoạn đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện đại cũng cân đối vai trò của lao động, dùng vai trò của lao động để vận hành máy móc.Lao động là một yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất không thể có gì thay thể hoàn toàn được lao động. Với Việt Nam là một nước đang phát triển và muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì cần đề cao vai trò của lao động trong phát triển kinh tế. Những lý do trên là cơ sở của đề tài: “Dự báo cung lao động Việt Nam (số lượng và cơ cấu) giai đoạn đến năm 2010”. Nội dung của đề tài là phân tích thực trạng của lao động Việt Nam hiện nay và phương hướng giải quyết để phát huy vai trò của lao động góp phần phát triển kinh tế. Phần I CƠ Sở Lý LUậN CủA Đề TàI I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của nguồn lao động Việt Nam Một số khái niệm cơ bản a. Dân số: Là tổng số người đang tồn tại và phát triển trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (một nước, một châu lục hay toàn cầu…) tại một thời điểm xác định. b. Nguồn lao động (hay lực lượng lao động). Là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm), và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm, nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tính khác(nghỉ hưu trước tuổi quy định). Cần biết là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những người đang tham gia lao động là trực tiết góp phần tạo ra thu nhhập của xã hội 2. Đặc điểm của nguồn lao động ở Việt Nam hiện nay a. Số lượng lao động tăng nhanh Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2%trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Theo số liệu tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước ta là 76,32 triệu người, trong đó khoảng 39 triệu người là lực lượng lao động chiếm 51% dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. b. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp.ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tông số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế c. Trình độ chuyên môn của người lao động thấp ở Việt Nam số người không biết chữ hiện nay còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên nghiệp, chỉ có 9% trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ thuật. Các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn ít. d. Còn một bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng. Như trên đã phân tích, việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị. ở nước ta, năm 1998, chỉ tính riêng khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp là 6,85%tăng hơn 0,84%so với năm 1997. Số lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay trên 8%, thậm chí còn có nơi lên tới 50-60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng 27,65%. Tính chung cho cả nước, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt động kinh tế năm 1998 là 71,13%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làmđang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn đề kinh tế-xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 của Việt Nam đã khẳng định “Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để đinh hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ’’. Trên phạm vi rộng, giải quyết việclàm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. 3. Khái quát về thực trạng nguồn lao động Việt Nam (1996-2003) 3.1. Qui mô lực lượng lao động của Việt Nam thời kỳ 1996-2003 3.2. Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam thời kỳ 1996-2003 a. Cơ cấu theo trình độ văn hóa Tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo trình độ văn hoá(%) 1996 1997 1998 Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1 Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 45,3 Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3 Đã tốt nghiệp cấpIII 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2 Nguồn: Thực trạng lao động - Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996-1998 Theo số liệu của bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, là kết quả của chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao động chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997-1998 đẫ giảm từ 20,3% xuống 18,5% nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ chậm, trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp I năm 1996 là 27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ là 29,4%; lao động tốt nghiệp cấp III năm 1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp III chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn. b. Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Hiện nay ở nước ta đang tồn tại tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao(88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, thể hiện ở tháp sau: Hình 1: Tháp lao động của Hình 2: Tháp lao động của Việt Nam Các nước công nghiệp 0,3% 2,7% 33,5% 5,5% 88% 0,5% 5% 24,5% 35% 35% Các nhà khoa học Kỹ sư Chuyên viên kỹ thuật Lao động lành nghề Lao động không lành nghề Hình 1 Hình 2 Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển 15000 công nhân kỹ thuật, ta chỉ đáp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao động kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, cơ cấu lao động của ta hiện đang rơi vào tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay trong LLLĐ, số lao động có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất hợp lý. Năm 1997 là 1/1,5/ 1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác.. Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giáo viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm. c. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế: Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế 1996 1997 Triệu người % Triệu người % Tổng số 35,792 8,77 33,994 8,83 Khu vực I Nông nghiệp và Lâm nghiệp Thuỷ sản 69,22 67,48 1,74 1,04 1,03 1,49 68,78 67,07 1,70 1,01 1,00 1,35 Khu vực II CN khai thác CN chế biến SX và PP điện, khí đốt và nước Xây dựng 12,93 0,59 9,19 0,43 2,72 23,37 46,48 19,09 39,46 30,18 12,52 0,57 8,90 0,41 2,64 24,73 52,6 19,38 38,56 34,65 Khu vực III Thương nghiệp và sửa chữa Khách sạn, nhà hàng Vận tải, kho bãi, thông tin Tài chính và tín dụng Hoạt động và KHCN Kinh doanh tài sản và tư vấn QLNN, ANQP, BHXH Giáo dục và đào tạo Y tế và cứu trợ xã hội Hoạt động VHTT Hoạt độngdảng, đoàn thể Phục vụ cá nhân và cộng đồng 17,85 0,63 1,54 2,39 0,35 0,11 0,21 1,14 2,78 0,82 0,72 0,28 1,66 28,16 9,61 7,27 24,49 39,66 81,63 44,21 53,10 74,49 57,24 33,72 54,91 2,78 18,70 7,22 1,40 2,31 0,34 0,11 0,21 1,11 2,70 0,80 0,26 0,27 1,61 26,95 7,68 7,19 23,00 41,78 79,63 44,13 57,60 77,75 58,51 34,72 64,66 3,68 Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê Thứ tư, LLLĐ là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngành.. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%.So với một số nước trong khu vực, cơ cấu LLLĐ của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, năm 1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%. Để có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả vấn đề không chỉ đơn thuần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân số. Hiện tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) và 80% dân số sống ở vùng nông thôn thì việc thực hiện CNH, HĐH rất không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, và cũng phải biết từ bỏ tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình thức mà ra. d. Cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ: Hiện nay có sự thiếu cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có 4%, vùng duyên hải Miền Trung10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia. e. Cơ cấu lao động theo tình trạng có việc làm hay thất nghiệp: Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị (%) 1996 1997 1998 1999 Toàn quốc 5,88 6,01 6,85 7,40 1.Đồng bằng sông Hồng 7,57 7,06 8,25 9,34 Hà Nội 7,71 8,56 9,09 10,31 2.Vùng Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72 Quảng Ninh 9,63 7,06 6,80 9,29 3.Vùng Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58 4.Vùng Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,62 5.Duyên hải Nam Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07 Đà Nẵng 5,53 5,42 6,35 6,64 6.Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95 7.Vùng Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,64 6,52 TP Hồ Chí Minh 5,68 6,13 6,76 7,04 Đồng Nai 6,61 4,03 5,52 5,87 8.Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra Lao động - Việc làm hàng năm ở khu vực thành thị 1996,1997,1998,1999 Sau khi đạt mức thất nghiệp thấp nhất là 5,88% năm 1996, tỷ lệ thất nghiệp chính thức ở khu vực thành thị có xu hướng tăng trở lại ở năm 1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,08 % và năm 1999 là 7,4%số lao động thành thị bị thất nghiệp. Tại một số thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp năm 1998 tăng nhanh đặc biệt ở Hà Nội (9,09%), Hải Phòng (8,43%), Đà Nẵng (6,35%), TP Hồ Chí Minh (6,76%) và tỷlệ tương ứng năm 1999 là:10,31%, 8,04%, 6,64%, 7,04%. Lao động thành thị làm việc chủ yếu trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt tại các thành phố lớn, nơi thu hút phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Sự đi xuống về kinh tế từ năm 1998, một phần chịu tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực là nguyên nhân chính dẫn đến tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này. Năm 1998 một số ngành có tỷ lệ thất nghiệp tăng lên rõ rệt như: hoá chất (11,27%), khai thác mỏ(3,57%), dệt (2,06%), giày (2,15%), may mặc (2,66%) trong khi tỷ lệ tương ứng của năm 1997 tương đối thấp (0,08%, 0,26%, 0,26%, 0,05%, 1,91%). Trong số lao động thất nghiệp ở thành thị, tỷ lệ cao nhất rơi vào nhóm người trẻ tuổi từ 15-24 và nhóm tuổi 25-34. Số người này chủ yếu là học sinh phổ thông chưa tốt nghiệp, sinh viên trung học và đại học ra trường muốn có việc nhưng không tìm được việc làm. Có thể thấy tình hình đó qua bảng sau đây: Bảng10: Tỷ lệ thất nghiệp của lao động hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực thành thị phân theo nhóm tuổi (%) Năm 15-24 25-34 35-44 45-59 55 56-59 60 >60 1996 1997 1998 21,28 11,4 13,54 10,57 5,97 7,11 5,65 4,06 4,45 4,8 3,68 3,83 3,05 2,56 3,03 4,17 2,02 3,03 2,17 1,65 1,18 3,51 1,18 Cơ cấu thất nghiệp phân theo nhóm tuổi 1996 1997 1998 42,69 37,16 36,03 32,70 31,95 32,25 16,11 20,93 20,91 6,03 8,67 8,72 0,25 0,34 1,48 1,09 0,81 1,48 0,1 0,15 0,6 1,03 0,6 100 100 100 Nguồn : Thực trạng lao động-việc làm ở Việt Nam , nxb Thống 1996-1998 Xét trên tổng thể , nếu vẫn giữ nguyên mức tăng dân số (1,7%/năm), tăng nguồn lao động và GDP như thời kỳ 1995-1998 và với hệ số co dãn việc làm khoảng 0,25-0,33 thì đến sau năm 2000 Việt Nam vẫn dư thừa lao động. 4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của dự báo: Dự báo dân số và nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức to lớn đối với nhiệm vụ quản lý kinh tế – xã hội của đất nước. Những kết quả của dự báo dân số và nguồn nhân lực trong trương lai về số lượng, cơ cấu theo giới tính, độ tuổi, sự phân bố theo lãnh thổ, cơ cấu về trình độ văn hoá và chuyên môn là nguồn tài liệu cơ sở để nhà nước ra kế hoạch phân bổ, sử dụng hợp lý lao động, giải quyết việc làm đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống xã hội. Dân số và nguồn lao động trong tương lai là biến số quan trọng quyết định các cân đối vĩ mô như tích luỹ và tiêu dùng, xuất – nhập khẩu, tiết kiệm và đầu tư, cũng như các chỉ tiêu chủ yếu trong kế hoạch phân bổ lại lực lượng sản xuất. Nhà nước căn cứ vào các thông số của dự báo dân số và nguồn nhân lực để đề ra kế hoạch xã hội như giao dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, chính sách dân số cũng như các vấn đề xã hội khác… Dự báo dân số và nguồn nhân lực là một bộ phận lớn trong hệ thống dự báo kinh tế – xã hội. Đối tượng trực tiếp của dự báo dân số là sự biến động tự nhiên của dân số trong tương lai thông qua diễn biến của hệ số sinh, hệ số chết, những thay đổi về kết cấu giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, phân bố theo lãnh thổ cũng như cường độ của các luồng di dân trong thời kì dự báo. Đối tượng của dự báo nguồn lao động xã hội là số lượng, cơ cấu theo tuổi, giới, trình độ học vấn và cơ cấu nghề nghiệp cũng như sự thay đổi trong phân bố và sử dụng nguồn lao động trong tương lai trên phạm vi nền kinh tế cũng như các vùng lãnh thổ. 5. Phương pháp dự báo: Dự báo bằng phương pháp chuyển tuổi Bước 1: Dự báo dân số ở tương lai bằng phương pháp thành phần (chuyển tuổi). Khoảng chuyển tuổi trong trường hợp này có thể làm một năm hoặc năm năm và cần tính riêng cho dân số năm và nữ Bước 2: Căn cứ vào giới hạn tuổi lao động của năm giới và nữ giới, dựa vào kết quả dự báo ở bước một để xã định bộ phận dân số trong độ tuổi lao động cho nam và nữ. Bước 3: Xác định số lượng nguồn nhân lực trên cơ sở kết quả ở bước hai và hệ số có khả năng lao động theo từng giới tính. Hệ số có khả năng lao động thường được tính toàn trên cơ sở điều tra trong quá khứ và cần được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện tương lai. Thông thường hệ số này biến động trong khoangr 94-97% (đối với nam giới) và 95-98% (đối với nữ giới) Bước 4: Xác định nguồn lao động trong tương lai trên cơ sở nguồn nhân lực ở bước ba. Có thể sử dụng phương pháp hệ số cố định hoặc có điều chỉnh theo số lượng nguồn nhân lực. Cũng có thể tính số lượng nguồn lao động bằng phương pháp loại trừ khỏi nguồn nhân lực bộ phận đang đi học, đang tham gia lực lượng vũ trang hoặc làm các công việc đặc biệt khác và bộ phận làm nội trợ gia đình. Về nguyên tắc các bộ phận này có thể dự báo được bằng các phương pháp chung của dự báo. Bước 5: Phân tích kết quả dự báo và điều chỉnh kết quả cho phù hợp với những điều kiện và nhân tố mới trong kỳ dự báo. Cần chú ý là trong thực tế nguồn lao động xã hội còn được bổ sung bởi lượng lao động ngoài độ tuổi (trên hoặc dưới độ tuổi lao động theo quy định nhưng vẫn còn hoặc có khả năng lao động). Phần II Mô hình dự báo 1. Quy mô dân số phân theo nhóm tuổi Mô hình chung để dự báo theo phương pháp chuyển tuổi có dạng: Trong đó: : số dân sống ở nhóm n độ tuổi tính từ x+n có ở thời điểm dự báo t+n : Số dân sống sau n năm của nhóm n độ tuổi tính từ tuổi x của kì dự báo : Hệ số sống sau n năm của nhóm n độ tuổi tính từ tuổi x của kì dự báo. Đơn vị: Nghìn người Tổng số Nam Nữ 0 1303,9 676,3 627,6 1-4 5965,5 3108,9 2856,6 5-9 9161,1 4744,8 4416,3 10-14 9131,8 4724,1 4407,7 15-17 5278,2 2695,5 2582,7 18-19 2940,2 1428,1 1512,1 20-24 6764,7 3282,9 3481,8 25-29 6474,1 3225,8 3248,3 30-34 6001,3 2984,9 3016,4 35-39 5551,7 2700,5 2851,2 40-44 4509,3 2144,3 2365,0 45-49 3105,4 1468,2 1637,2 50-54 2136,9 965,3 1171,6 55-59 1804,2 793,7 1010,5 60-64 1766,6 775,8 990,8 65-69 1681,9 750,8 931,1 70-74 1208,9 504,2 704,
Tài liệu liên quan