Có thể nói , trong điều kiện toàn cầu , khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong mấy thập niên gần đây , đối với bất cứ quốc gia nào việc xác định một cách đúng đắn hoạt động mở cửa hội nhập kinh tế thế giới có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế –xã hội . Đặc biệt đối với nước ta kể từ khi thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (1986) thì vấn đề đó lại càng trở nên hết sức quan trọng.
Thực tế các nước phát triển đi trước đã cho thấy việc chú trọng đến hoạt động kinh tế đối ngoại trong công cuộc mở cửa hội nhập thị trường thế giới là hoàn toàn có cơ sở và hoàn toàn đúng đắn . Lợi ích kinh tế – xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho đất nước là hết sức to lớn ,đó là sự phát triển sản xuất , đổi mới cơ cấu kinh tế , tăng năng suất lao động xã hội , tích luỹ ngoại tệ , tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước , giải quyết việc làm , cải thiện đời sống nhân dân
Trước tầm quan trọng về vấn đề hoạt động kinh tế đối ngoại đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu lên thành một nước công nghiệp phát triển vững mạnh ngang tầm các quốc gia phát triển trên thế giới không những về tiền của , về nguồn lực mà còn về quan hệ quốc tế , tôi đã chọn đề tài “ Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với trình độ hiểu biết và khả năng còn hạn chế , và trong giới hạn nhỏ hẹp của bài viết này tôi chỉ xin góp một số ý kiến trong việc đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta bao gồm hoạt động ngoại thương , đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ và chỉ rõ tầm quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong công cuộc đổi mới đất nước đồng thời góp phần đề ra phương hướng , biện pháp để phát triển , mở rộng và nâng cao hoạt động kinh tế đối ngoại .
23 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU
Có thể nói , trong điều kiện toàn cầu , khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong mấy thập niên gần đây , đối với bất cứ quốc gia nào việc xác định một cách đúng đắn hoạt động mở cửa hội nhập kinh tế thế giới có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế –xã hội . Đặc biệt đối với nước ta kể từ khi thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (1986) thì vấn đề đó lại càng trở nên hết sức quan trọng.
Thực tế các nước phát triển đi trước đã cho thấy việc chú trọng đến hoạt động kinh tế đối ngoại trong công cuộc mở cửa hội nhập thị trường thế giới là hoàn toàn có cơ sở và hoàn toàn đúng đắn . Lợi ích kinh tế – xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho đất nước là hết sức to lớn ,đó là sự phát triển sản xuất , đổi mới cơ cấu kinh tế , tăng năng suất lao động xã hội , tích luỹ ngoại tệ , tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước , giải quyết việc làm , cải thiện đời sống nhân dân …
Trước tầm quan trọng về vấn đề hoạt động kinh tế đối ngoại đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu lên thành một nước công nghiệp phát triển vững mạnh ngang tầm các quốc gia phát triển trên thế giới không những về tiền của , về nguồn lực mà còn về quan hệ quốc tế , tôi đã chọn đề tài “ Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam’’.
Với trình độ hiểu biết và khả năng còn hạn chế , và trong giới hạn nhỏ hẹp của bài viết này tôi chỉ xin góp một số ý kiến trong việc đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta bao gồm hoạt động ngoại thương , đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ và chỉ rõ tầm quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại trong công cuộc đổi mới đất nước đồng thời góp phần đề ra phương hướng , biện pháp để phát triển , mở rộng và nâng cao hoạt động kinh tế đối ngoại .
NộI DUNG
CHƯƠNG 1
TíNH TấT YếU KHáCH QUAN CủA VIệC Mở RộNG KINH Tế ĐốI NGOạI
1.1 Kinh tế đối ngoại là gì ?
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế,
là tổng thể các quan hệ kinh tế , khoa học , kĩ thuật ,công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức , hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Vai trò của kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất,trao đổi , thị trường trong nước với quốc tế và với khu vực , nhờ có hoạt động kinh tề đối ngoại nước ta có thể trao đổi hàng hoá sản phẩm với các nước khác nghĩa là vừa xuất khẩu ra nước ngoàI,vừa nhập khẩu những hàng hoá ,sản phẩm cần thiết.Sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá
đất nước đang trong giai đoạn quan trọng vì thế cần có một nguồn vốn lớn , cần khoa học,kỹ thuật công nghệ mới cần những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế , nhờ có kinh tế đối ngoại mà chúng ta đáp ứng được những nhu cầu quan trọng đó .Không chỉ như vậy , kinh tế đối ngoại còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực hiện tốt mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp phát triển ,tạo ra nhiều công ăn việc làm , giảm tỉ lệ thất nghiệp ,tăng thu nhập ,ổn định và cảI thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Những cơ sở khoa học của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại
Phân công lao động quốc tế :
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp môt hoặc một số loại sản phẩm và dịnh vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên ,kinh tế khoa học ,công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế .
Vậy vì sao nói phân công lao động quốc tế là cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại ?
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện nhiều hình thức hợp tác giữa các nước ,đó chính là một biểu hiện của kinh tế đốingoại.
Phân công lao động quốc tế với tốc độ phát triển ngày càng nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lại càng đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại . Sự biến đổi cơ cấu nghành và cơ cấu lao động đã xuất hiện các nghành mới như dịch vụ ,… từ đó hoạtđộng kinh tế đối ngoại lại càng phong phú hơn trên nhiều lĩnh vực trên nhiều mặt với nhiều nước hơn
Lý thuyết về lợi thế –Cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế:
Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, những nhà kinh tế học tài sản cổ điển đã đưa ra quan điếm lợi thế tuyệt đối trong trao đổi quốc tế .Nó đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất ra sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau . Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất một hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn là nước thứ hai.
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, thì lợi ích thương mại là rõ ràng . Nhưng nếu nước A có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước B cả hai mặt hàng đem trao đổi thì điều gì sẽ xảy ra?
Để trả lời câu hỏi này ,D. Ricardo đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh khẳng định rằng , nếu một nước có lợi thế so sánh trong một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh trong một số sản phẩm khác thì nước đó sẽ có lợi trong chuyên môn hoá và phát triển thương mại quốc tế . Thương mại quốc tế chủ yếu phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải chỉ phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đối. Cụ thể , ông cho rằng một đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó nếu nước đó có chi phí sản xuất tương đối về mặt hàng đó thấp hơn so với nước khác .
Ví dụ : Chi phí sản xuất lương thực và quần áo của Mỹ thấp hơn Châu Âu tức là Mỹ có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng . Tuy nhiên Mỹ chỉ có lợi thế so sánh về lương thực , còn Châu Âu lại có lợi thế so sánh về mặt hàng quần áo. Như vậy nước Mỹ nên chuyên môn hoá sản xuất luơng thực còn Châu Âu thì nên chuyên môn hoá về mặt hàng quần áo.
Sản phẩm
Hao phí lao động
Mỹ
Châu Âu
1 đơn vị lương thực
1 đơn vị quần áo
1 3
2 4
Như vậy , mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế về một số mặt hàng khác , đó chính là cơ sở để xác định việc chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng nào , từ đó có những quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại cụ thể .
Xu thế thị trường thế giới :
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà xu thế toàn cầu hoá đang phát triển nhanh chóng , gia tăng mạnh mẽ quy mô và phạm vi giao dịch hàng hoá , dịch vụ xuyên quốc gia , dòng vốn đầu tư lan tỏa ra toàn cầu , công nghệ , kỹ thuật truyền bá nhanh chóng và rộng rãi . Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh ; vòng đàm phán Uruguay kết thúc , Hiệp định Marakest được ký kết , Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)ra đời từ 01.01.1995 thu hút tới 136 và nay là 144 quốc gia và lãnh thổ , chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán quốc tế , theo hướng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế , mở cửa thị trường hàng hoá , đầu tư , dịch vụ ,…Bên cạnh sự ra đời của WTO , xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu vùng , khu vực , liên khu vực như các tam , tứ giác phát triển , các khu vực mậu dịch tự do (AFTA , NAFTA) , những tổ chức liên kết toàn châu lục
(EU) hoặc giữa các châu lục (APEC). Các nước lớn nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở . Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng lớn như Trung Quốc ,Nga ,Ân Độ ,Mỹ,… và cả một số nước vốn “ khép kín “, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa , từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới . Thị trường thế giới phát triển theo xu thế ngày càng mở rộng , các hoạt động thương mại mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
Tóm lại sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công lao động quốc tế mà các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh trong xu thế phát triển thị trường thế giới ngày càng sâu và rộng.
CHƯƠNG 2
NHữNG HìNH THứC CHủ Yếu Và THựC TRạNG CủA
KINH Tế ĐốI NGOạI
Ngoại thương :
.Ngoại thương là gì và các chức năng của ngoại thương?
Ngoại thương là sự trao đổi hàng hoá , dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán .Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuát hàng hoá riêng biệt của các quốc gia .
Ngày nay , ngoại thương không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với bên ngoài , mà thực chất là cùng với các hoạt động đầu tư quốc tế , dịch vụ thu ngoại tệ tạo nên kinh tế đối ngoại .
Là một ngành kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá giữa trong nước với nước ngoài , chức năng cơ bản của ngoại thương là tổ chức chủ yếu quá trình lưu thông hàng hoá với bên ngoài thoả mãn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về hàng hoá theo số lượng , chất lượng mặt hàng địa điểm và thời gian phù hợp với chi phí ít nhất .
Cụ thể :
Thứ nhất -Tạo nguồn vốn cho quá trình mở rộng vốn đầu tư trong nước
Thứ hai – Chuyển hoá giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúng với nhu cầu của tiêu dùng và tích lũy .
Thứ ba - Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất , kinh doanh .
Thực trạng và thành tựu ngoại thương đạt được trong thời gian qua.
Ngoại thương bao gồm hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá , thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu , trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng .
Xuất nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước , hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần xứng đáng của mình vào những thành tựu to lớn rất quan trọng mà toàn Đảng , toàn dân đã dành được trong thời kỳ đổi mới đất nước . Trong 10 năm (1991-2000) kim ngạch xuất khẩu tăng 5,6 lần (từ 2,4 tỉ USD lên 13,5 tỉ USD), bình quân hàng năm tăng 18,4% , cao gấp 2,6 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của GDP là 7,6%. Riêng năm 2003 đạt khoảng 19,5 tỉ USD trong tổng số hơn 40 tỉ USD GDP của nước ta. Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực , tỉ trọng sản phẩm xuất khẩu qua xuất khẩu tăng từ 8% lên 40%, từ chỗ chỉ có 4 mặt hàng có kim ngạch trên 100 triệu USD nay đã có 8 mặt hàng , trong đó nước ta chiếm vị thế vào loại hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo , cà phê , hạt điều , hồ tiêu - điều không thể hình dung nổi vào những năm trước 2000. Riêng về nhập khẩu tỉ trọng hàng tiêu dùng nhập khẩu giảm từ 15%(1990) xuống 4%(2000). Hiện nay , Việt Nam nhập khẩu chủ yéu là tư liệu sản xuất ( chiếm tới 96%trong tổng số kim ngạch nhập khẩu của cả nước ), tỉ trọng nhập siêu so với xuất khẩu giảm từ 33% xuống 8% , nghĩa là những năm trước 1995 phảI nhập siêu tới 4 tỉ USD/năm , nay giảm xuống chỉ còn 1 tỉ USD/năm . Tuy nhiên , quy mô xuất khẩu của nước ta còn rất nhỏ bé , nếu tính theo đầu người thì chỉ khoảng 175 USD so với 933USD ở Thái Lan vào năm 1966 . Cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu , khả năng cạnh tranh còn thấp do giá thành cao , chất lượng thấp , mẫu mã chưa đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng .Thị trường của nước ta chỉ mới có chiều rộng chưa có chiều sâu .
Đầu tư quốc tế . 2.2.1 Đầu tư quốc tế là gì và các loại hình của đầu tư quốc tế .
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại , nó là quá trình trong đó hai hoặc nhiều bên (có quốc tịch khác nhau ) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lời .
Đầu tư quốc tế có hai loại hình là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp .Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau , tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức , quản lý và điều hành dự án đầu tư , chịu trách nhiệm về kết quả , rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận .
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư , tức là người có vốn khong trực tiếp tham gia vào việc tổ chức , điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay hoặc lợi tức cổ phần , hoặc có thể không thu lợi trực tiếp .
Xu hướng đầu tư quốc tế .
Xu hướng toàn cầu của nguồn FDI trong những năm gần đây tập trung vào hai khu vực . Một là đầu tư vào các nước Tư Bản cụ thể là tập trung cao độ vào Mỹ , Tây Âu , Nhật Bản . Hai là đầu tư vào các nước Châu á đang phát triển .Thực tiễn cho thấy , 90% dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển được thực hiện bởi các công ty lớn trên thế giới hoặc còn gọi là các công ty đa quốc gia (MNC- Multi National Corporation). Số lượng các công ty này đã lên tới 50% trong năm 2000, nguồn FDI của các công ty này còn cung cấp kĩ thuật , bí quyết công nghệ , kinh nghiệm quản lý ,…vào các nước tiếp nhận đầu tư , tạo cơ hội cho nước này phát triển , phát huy lợi thế so sánh của mình về nguồn lao động dồi dào , và giá nhân công thấp . Vì thế các nước đang phát triển mới có cơ hội để thu hút FDI(xem bảng 1)
Bảng 1: Dòng vốn đầu tư quốc tế giai đoạn 1987-1999(tỷ USD)
Năm
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
Thế giới
1987-1988
142
31
173
1989
172
29
201
1990
176
35
211
1991
115
41
158
1992
111
55
166
1993
141
79
220
1994
148
105
253
1995
216
111,8
328
1996
213
145
358
1997
285,2
178,8
464
1998
465,5
179,5
644
1999
657,9
207,6
865,5
2000
800
200
1000
Tổng cộng
3651,8
1391,70
5043,5
Bảng trên cho thấy nguồn vốn FDI trên toàn thế giới tăng liên tục và đến nay đạt trên 5.000 tỷ USD .Dự kiến sẽ tăng thêm khoảng 300 tỷ USD mỗi năm . Dự báo trong thời gian tới nguồn vốn này vẫn sẽ tiếp tục gia tăng là do xu hướng sát nhập các công ty thành các công ty lớn hơn trên thế giới . Theo đánh giá của tổ chức Hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD) thì dòng vốn FDI sẽ tăng lên mức kỷ lục khoảng 1000 tỷ USD , tăng gần 5 lần so với năm 1990 . Và cũng như những năm trước , đại bộ phận dòng vốn FDI được hút vào các nước công nghiệp phát triển . Năm 1999 , các nước công nghiệp phát triển thu hút 657,9 tỷ USD trong tổng số 865,5 tỷ USD FDI chiếm tỷ lệ 76% trong khi 3/4 dân số sống tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chia nhau 24% còn lại khoảng 200 tỷ USD . Trong số các nước phát triển thì Mỹ có nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn là nước hấp dẫn FDI nhất thế giới , ước tính đạt gần 200 tỷ USD trong năm 2000 , Liên minh Châu Âu (EU) được coi là khu vực tiếp nhận nhiều dòng FDI của thế giới , gần 500 tỷ USD (1999).
Tại Châu á , dòng FDI vào các nước đang phát triển của khu vực này đã tăng đáng kể từ 35 tỷ USD năm 1990 lên 207,6 tỷ USD năm 1999 . Trong đó Trung Quốc là nước thu hút được nhiều vốn FDI nhất : khoảng 40 tỷ trong năm 1999.
Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội và dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh đã khẳng định rõ nét vai trò vị trí của FDI trong nền kinh tế Việt Nam
Thật vậy , FDI với những thế mạnh về vốn , công nghệ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta , phát triển nhiều nghành nghề mới như lắp ráp ô tô - xe máy , ti vi , máy giặt , điều hoà nhiệt độ , máy Radio Casselte , đầu hát VCD , DVD, CD , tổng đài điện thoại … FDI cũng đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ , đưa ra những mô hình quản lý tiên tiến , phương thức kinh doanh hiện đại và là động lực quan trọng buộc các nhà đầu tư trong nước phảI đổi mơí công nghệ , nâng cao chất lượng , cảI tiến mẫu mã bao bì của sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trogn cơ chế thị trường .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã góp phần mở rộng , đa dạng hoá và đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại , tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta sớm hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực.
Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến tháng 6. 2001 cả nước đã thu hút được 3.355 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 40 tỷ USD , vốn thực hiện 18,328 tỷ USD (xem bảng 1)
Trong tổng số vốn đầu tư đăng ký còn khoảng 18,793 tỷ USD chưa được thực hiện , gồm có những dự án thuộc khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 8,36 tỷ , khu vực dịch vụ khoảng 9,4 tỷvà nông – lâm – ngư nghiệp chiếm khoảng 1,033 tỷ USD . Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do các chủ đầu tư trong ccá dự án địa ốc đều thuộc các công ty , tập đoàn Châu A , khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực , nhiều công ty mẹ ở chính quốc gặp khó khăn về tài chính dẫn đến sự đình trệ trong triển khai thực hiện các dự án trên tại Việt Nam .
Xét về cơ cấu, vốn FDI chủ yếu tập trung vào công nghiệp và xây dựng với 1.704 dự án , tổng vốn đầu tư là 19,472 triệu USD chiếm tỷ trọng 53,2 % tổng vốn đầu tư . Kế đến là thương mại – dịch vụ có 649 dự án , với tổng vốn đầu tư là 14.830 triệu USD chiếm 40,5 % tổng vốn đầu tư . Riêng lĩnh vực nông –lâm – ngư nghiệp có số dự án là 383 với tổng vốn đầu tư là 2.292 triệu USD chiếm 6,3 %.
Xét về quốc gia và lãnh thổ thì trong 15 quốc gia dẫn đầu về đầu tư tại Việt Nam thì nhóm dự án Singapore là lớn nhất với 237 dự án (6.606 triệu USD ), Đài Loan 676 dự án (4.806 triệu USD ) , Nhật 312 dự án (3.984 USD ),Hàn Quốc 297 dự án ( 3.205 triệu USD ) Hong Kong 214 dự án (2.854 triệu USD ) , B.V Islands 115dự án (1.800 triệu USD) , Hà Lan 41 dự án (1.676 triệu USD) , Pháp 111 dự án (1.659 triệu USD) , Nga 37 dự án (1.486 triệu USD ), Anh 35 dự án (1.163 triệu USD ) , Mỹ 120 dự án (914 triệu USD) , Uc 72 dự án (772 triệu USD) , Thụy Sĩ 21 dự án (527 triệu USD)
Xét về địa bàn hoạt động , trong 15 tỉnh thành dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI thì TP HCM có số dự án lớn nhất với 963 dự án (9.838 triệu USD), Hà Nội 375 dự án (7.734 triệu USD ) , Đồng Nai 295 dự án (4.649 triệu USD ) , Bình Dương 416 dự án (2.369 triệu USD ) , Quảng Ngãi 68 dự án (1.438 triệu USD), Hải Phòng 5 dự án (1.327 triệu USD), Bà Rịa – Vũng Tàu 86 dự án (1.290 triệu USD ), Lâm Đồng 48 dự án (491 triệu USD), Quảng Ninh 28 dự án (579 triệu USD), Hà Tây 24 dự án (491 triệu USD) , Hải Dương 10 dự án (455 triệu USD) , Thanh Hoá 6 dự án (357 triệu USD), Kiên Giang 40 dự án (363 triệu USD), Đà Nẵng 37 dự án (357 triệu USD), Khánh Hoà 34 dự án (339 triệu USD).
Qua các số liệu thực tế về hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu tập trung vào những nghành dễ thu lợi nhuận , thời gian thu hồi vốn nhanh , có thị trường tiêu thụ trong nước lớn và những nghành trong nước có tiềm năng như nghành sản xuất chất tẩy rửa , nghành dệt da , may mặc , nghành lắp ráp ô tô -xe máy , thiết bị điện tử viễn thông , sắt thép , xi măng , khách sạn , văn phòng cho thuê . Bên cạnh đó , cũng có những nhà đầu tư công nghệ cao , những nhà đầu tư lớn với mục tiêu vừa chiếm lĩnh thị trường trong nước vừa thâm nhập thị trường trong khu vực nên giai đoạn đầu họ chỉ kinh doanh thăm dò để chờ nắm bắt cơ hội trong tương lai . Nhìn chung , khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều tiềm năng trong các nghành khai thác và sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao và làm hàng xuất khẩu .
Đến nay , có thể đánh giá là khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể cả về số lượng lẫn vốn đầu tư và thực sự trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam , vốn FDI chiếm từ 20-30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội .
Vốn FDI là một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của nước ta . Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP tăng nhanh qua các năm từ 2% năm1992 lên 6,3 %năm 1995 và 12,7 % năm 2000. Giá trị sản xuất của khu vực FDI trong tổng giá