Đề tài Vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet: nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Anh, Pháp, Mỹ

Ngày nay ít ai trong chúng ta biết rằng những hoạt động thường nhật được biết đến như chia sẻ dữ liệu, tải nhạc Mp3, sao chép các văn bản dữ liệu trên mạng Internet lại có thể là những hành động xâm phạm bản quyền qua Internet. Hơn nữa, đối tượng xâm phạm bản quyền qua mạng Internet chủ yếu là giới trẻ nhưng rất ít trong số họ nhận thức được đầy đủ về hành vi của chính mình.

doc84 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet: nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Anh, Pháp, Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay ít ai trong chúng ta biết rằng những hoạt động thường nhật được biết đến như chia sẻ dữ liệu, tải nhạc Mp3, sao chép các văn bản dữ liệu trên mạng Internet lại có thể là những hành động xâm phạm bản quyền qua Internet. Hơn nữa, đối tượng xâm phạm bản quyền qua mạng Internet chủ yếu là giới trẻ nhưng rất ít trong số họ nhận thức được đầy đủ về hành vi của chính mình. Thế giới đang ngập tràn trong các phương tiện truyền thông và giải trí, máy tính cá nhân, sự kết nối Internet và sự truyền tải dữ liệu thông tin rộng rãi. Xung quanh chúng ta là máy nghe nhạc Mp3, ti vi, máy ghi hình cá nhân, máy ghi đĩa CD, Ipods, máy tính xách tay, máy chơi game... Công nghệ đó khiến chúng ta có thể biết đến những phần mềm truyền thông đa phương tiện, những trò chơi máy tính, âm nhạc, phim ảnh... theo những cách mà chúng ta không thể có được hơn hai mươi năm về trước. Nhưng đây cũng chính là lúc nó đe dọa quyền sở hữu của các tác giả, những người cần được đền đáp xứng đáng với vốn trí tuệ cũng như mồ hôi công sức họ bỏ ra. Sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số làm cho việc truyền tải dữ liệu trên mạng Internet trở nên hết sức dễ dàng. Đặc biệt là sự ra đời và phát triển của Internet đã đặt ra một vấn đề hết sức nan giải về bản quyền, về những biện pháp đối phó mà các quốc gia trên thế giới áp dụng trong công cuộc chung chống xâm phạm bản quyền qua Internet. Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả đã chọn: " Xâm phạm bản quyền qua Internet: nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Anh, Pháp, Mỹ..." làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích chọn đề tài: - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về xâm phạm bản quyền qua Internet, khái niệm, các hình thức xâm phạm bản quyền Internet thường gặp và hệ thống các cơ quan chức năng tham gia bảo hộ bản quyền qua Internet để hình thành một cách hiểu chung nhất về xâm phạm bản quyền qua Internet. - Nghiên cứu về tình hình sử dụng Internet và thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại một số quốc gia. Từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn của từng quốc gia trong việc bảo vệ chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet. - Nghiên cứu về tình hình sử dụng Internet, thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet phổ biến tại Việt Nam để tìm ra những hạn chế trong công tác thực thi xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet. Từ đó, cùng với kinh nghiệm chống xâm phạm bản quyền qua Internet tại các quốc gia trên thế giới đưa ra bài học cho bản thân Việt nam. 3. Phạm vi và giới hạn của đề tài: Hiện nay, vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm. Mỗi quốc gia đều có cách xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet khác nhau tuy nhiên hầu hết vẫn dựa trên cơ sở các Công ước quốc tế đã ký kết. Do vậy, vì thời gian có hạn nên bài khóa luận này chỉ đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet của một số quốc gia tiêu biểu như Anh, Pháp, Mỹ và một số quốc gia thuộc khối EU khác. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích-tổng hợp,phương pháp thống kê, phương pháp diễn giải,quy nạp ,so sánh và đối chiếu… 5. Bố cục bài khóa luận: Khóa luận được chia thành 3 phần chính như sau: Chương I: Tổng quan về xâm phạm bản quyền qua Internet Chương II: Thực trạng và kinh nghiệm của một số quốc gia về xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet Chương III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet B. NỘI DUNG CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ XÂM PHẠM BẢN QUYỀN QUA INTERNET 1. Một số vấn đề liên quan xâm phạm bản quyền qua Internet: 1.1. Khái niệm về bản quyền qua Internet Thời kỳ Cổ đại và Trung cổ, pháp luật chưa tồn tại bất kỳ một chế định nào nhằm bảo vệ quyền sở hữu của tác giả đối với các công trình sáng tạo. Vì thế, khi không muốn bài viết hay tác phẩm của mình bị thay đổi, tác giả chỉ còn cách gắn một lời nguyền rủa nào đó vào chính tác phẩm của mình. Đến thời kỳ phục hưng, khi các quyền cơ bản của con người đặc biệt là quyền đối với thành quả sáng tạo được coi trọng hơn, khái niệm về bản quyền bắt đầu hình thành nhưng chưa đem lại cho tác giả một thu nhập nào. Khái niệm về bản quyền hiện nay bắt nguồn từ Điều lệ Ann của Anh năm 1710 thế kỷ thứ 18 [26]. Trong điều lệ này, lần đầu tiên độc quyền sao chép của một tác phẩm được ghi nhận. Theo đó, bản quyền được hiểu một cách chung nhất là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Thông thường, một tác phẩm được bảo hộ bản quyền một cách tự động khi nó là tác phẩm được sáng tạo nguyên gốc và được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Việc định hình dưới một thức vật chất nhất định không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. [Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (2005), Điều 6, Khoản 1]. Các định hình vật chất của tác phẩm được thể hiện dưới nhiều hình thức ví dụ như: - Các tác phẩm văn học như bài viết, bài báo, những câu chuyện, tạp chí... - Các chương trình máy tính như phần mềm, dữ liệu dạng số hóa... - Tranh ảnh và đồ họa - Bản chi tiết kiến trúc, điêu khắc... - Tác phẩm âm nhạc, lời bài hát... - Các tác phẩm nghe nhìn như phim ảnh, chương trình truyền hình, các tác phẩm ghi âm, tác phẩm kịch câm... Trong đó, Internet là một định hình mới có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, vượt qua mọi khoảng cách về không gian và thời gian. Linda J. Engelman đã định nghĩa Internet là một thế giới rộng lớn, mạng lưới tự quản lý kết nối với hàng ngàn mạng lưới nhỏ hơn của hàng triệu máy tính và người sử dụng với lượng thông tin khổng lồ [14, tr 1]. Internet bao gồm dữ liệu dưới dạng số hóa của tất cả các định hình vật chất của tác phẩm. Bản quyền trên Internet phát sinh khi một tác phẩm được công bố trên mạng Internet cho công chúng được phép tiếp cận và sử dụng hợp lý. Sự xuất hiện của Internet thực sự đã tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các tác giả trong môi trường kỹ thuật số đang ngày càng đa dạng và phức tạp hiện nay. 1.2. Nội dung bản quyền trên mạng Internet: Bản quyền trên mạng Internet được bảo hộ giống như bản quyền đối với tác phẩm thông thường bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. 1.2.1. Quyền nhân thân: Quyền nhân thân thông thường bao gồm các quyền sau: Quyền đặt tên cho tác phẩm Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tác tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín tác giả. [Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, (2005), Điều 19] Quyền nhân thân cũng được đề cập đến trong hai Công ước về Internet của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO là WCT và WPPT vào năm 1996. Hai Công ước này đã được thảo ra với sự đồng ý của hơn 100 quốc gia thuộc WIPO và được cập nhật thực tế dựa trên các công ước quốc tế về bản quyền tồn tại như Công ước Berne và Công ước Rome. Theo đó, quyền nhân thân của tác giả tác phẩm trên mạng Internet được thể hiện thông qua quyền tinh thần của người biểu diễn: " Độc lập với quyền kinh tế của người biểu diễn đối với các buổi biểu diễn nghe trực tiếp hoặc các buổi biểu diễn được định hình trong bản ghi âm và thậm chí sau khi chuyển nhượng các quyền kinh tế đó, người biểu diễn có quyền yêu cầu được công nhận là người biểu diễn của buổi biểu diễn của mình, trừ trường hợp bỏ sót bắt buộc do cách thức sử dụng buổi biểu diễn gây ra, và quyền phản đối bất kỳ sự bóp méo, cắt xén, hoặc sửa đổi khác đối với buổi biểu diễn của người biểu diễn mà có thể phương hại đến thanh danh của họ." [The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 5(1)] 1.2.2. Quyền tài sản: Quyền tài sản của tác giả thông thường bao gồm: Làm tác phẩm phái sinh Biểu diễn tác phẩm trước công chúng Sao chép tác phẩm Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm Truyền đạt tác phẩm tới công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. [Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (2005), Điều 20] Quyền tài sản trong Công ước WPPT được thể hiện thông qua quyền kinh tế đối với các buổi biểu diễn chưa được định hình, quyền sao chép, quyền phân phối, quyền cho thuê và quyền cung cấp các buổi biểu diễn định hình. + Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng được thể hiện trong quyền kinh tế đối với các buổi biểu diễn chưa được định hình trong WPPT như sau: " Đối với các buổi biểu diễn của mình, người biểu diễn được độc quyền cho phép: (i) phát sóng và truyền đạt tới công chúng buổi biểu diễn chưa được định hình của mình trừ khi buổi biểu diễn cũng chính là buổi biểu diễn phát sóng, và (ii) định hình buổi biểu diễn chưa được định hình của mình." [The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 6] Ở đây, WPPT quy định rõ ràng hơn và áp dụng riêng trong môi trường kỹ thuật số đối với quyền biểu diễn trước công chúng của một tác phẩm. + Quyền sao chép tác phẩm được thể hiện trong Điều 7, WPPT như sau: " Người biểu diễn được độc quyền cho phép sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm dưới bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào." [The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 7] Quyền sao chép được thể hiện đầy đủ hơn về hình thức bao gồm cả sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp và dưới bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào. WPPT 1996 đã quy định một cách rõ ràng và chi tiết hơn đối với quyền sao chép của tác giả. + Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm được thể hiện trong Điều 8 (1), WPPT về quyền phân phối tác phẩm: " (1) Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cung cấp cho công chúng bản gốc hoặc bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm thông qua việc bán hoặc hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu khác." [The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 8(1)] Ngoài quy định về quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, WPPT còn quy định về hình thức phân phối tác phẩm qua việc bán hoặc các hình thức chuyển nhượng khác. Điều này chưa được nêu trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005. + Quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng được thể hiện trong Điều 10 WPPT: " Người biểu diễn sẽ được hưởng quyền độc quyền cho phép cung cấp tới công chúng các buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm bằng các phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến, theo cách thức mà Bên ký kết trong xã hội có thể tiếp cận chúng từ một địa điểm và vào thời gian do cá nhân họ lựa chọn." [The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 10] Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 quy định về điều này cũng khá rõ ràng và đầy đủ, cũng bao gồm truyền đạt tác phẩm tới công chúng thông qua các phương tiện hữu tuyến và vô tuyến. Và thêm vào đó là truyền đạt thông qua mạng thông tin điện tử hay bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. + Quyền cho thuê đối với tác phẩm được quy định trong Điều 9, WPPT như sau: " Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc và bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm như được xác định trong luật pháp quốc gia của các Bên ký kết, thậm chí sau khi phân phối chúng bởi hoặc theo sự cho phép của người biểu diễn." [ The WIPO Performances and Phonograms Treaty (1996), Art. 9 (1)] Việt Nam chính thức là thành viên của Công ước WPPT vào 12/01/2006, một thời gian sau khi luật sở hữu trí tuệ hiện hành đã có hiệu lực. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điều khoản của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 lại phù hợp một cách cơ bản với các điều khoản của Công ước quốc tế về bản quyền, đặc biệt là các điều khoản liên quan đến vấn đề bản quyền trên Internet. 2. Xâm phạm bản quyền qua Internet 2.1. Các hình thức xâm phạm bản quyền qua Internet Thông thường một tác phẩm có thể bị xâm phạm bản quyền qua Internet bằng cách sao chép htlm, javascript, hay các đoạn mã truyền tải dữ liệu khác; tải xuống bất hợp pháp các tác phẩm bản quyền vào ổ cứng máy tính; tải lên hay phân phối bất hợp pháp tác phẩm; cắt xén, sửa chữa hay làm sai lệch tác phẩm mà chưa được sự cho phép của chủ sở hữu bản quyền. 2.1.1. Hình thức sao chép bất hợp pháp các bài báo, bản tin, tranh ảnh, đồ họa Các đối tượng sao chép bất hợp pháp trên mạng Internet thông thường là các bản tin, bài báo, tranh ảnh đồ họa. Sao chép bản tin, bài báo Việc sao chép các nội dung các đoạn văn bản từ trang web này sang trang web khác trên hệ thống world wide web mà không được sự đồng ý của tác giả vô cùng phổ biến. Chúng ta có thể dễ dàng đọc được một nhiều bài báo hay các bản tin giống hệt nhau trên các trang thông tin điện tử khác nhau. Điều đáng chú ý là các trang web sao chép các bài báo, bản tin này không hề đề tên tác giả và trích dẫn nguồn. Đặc biệt là giới trẻ hiện nay còn chưa ý thức được về vấn đề sao chép các đoạn văn hay bài báo cần trích dẫn nguồn trên hệ thống blog cá nhân và các forum. Sự thiếu ý thức này là một vấn đề hết sức nan giải cho các nhà làm luật hiện nay. Trong một bài báo mang tên " Copyright and Wrongs", Roberta Beach Jacobson đã phê bình việc lợi dụng Internet để sao chép các tác phẩm viết. Bài báo này được đăng trên website articletree.com vào ngày 27/11/2001 nhưng việc đáng buồn là nó đã được sao chép tới hàng trăm website và hàng trăm người đã đòi quyền tác giả đối với tác phẩm đó và cũng hàng trăm người nạp tiền để truy cập nó. Sao chép tranh ảnh, đồ họa: Tranh ảnh, đồ họa cũng thường được sao chép từ trang web này sang trang web khác mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Nếu trên website cá nhân của một người chứa hình ảnh hoặc đồ họa mà không do người đó tạo ra hay thiết kế thì người đó có thể đang vi phạm luật bản quyền. Tuy nhiên có rất nhiều kho tư liệu ảnh trên mạng Internet và thậm chí là các gói phần mềm ảnh khác nhau cho phép sao chép và sử dụng không cần xin phép. Việc sao chép hình ảnh và đồ họa vào máy tính và sử dụng cá nhân, không công khai trên Internet không bị coi là xâm phạm bản quyền. 2.1.2. Hình thức tải xuống và phân phối bất hợp pháp các tác phẩm âm nhạc, điện ảnh, phần mềm chương trình máy tính. Các tác phẩm âm nhạc, điện ảnh, phần mềm chương trình máy tính là đối tượng chủ yếu của việc download và upload bất hợp pháp trên mạng Internet. Tải xuống và phân phối bất hợp pháp tác phẩm âm nhạc Các tác phẩm âm nhạc trên Internet thông thường được download và phân phối dưới các định dạng như Mp3, Mp4, Wav hay AIFF... Những hành động này sẽ bị coi là bất hợp pháp khi chúng chưa được sự cho phép của chủ sở hữu hay các bên liên quan. Một số người có thể cho rằng việc download, upload những đoạn nhạc nghe thử hay thậm chí là một bản nhạc đầy đủ là hoàn toàn vô tội do sự thần tượng các ca sĩ hay nhóm nhạc. Tuy nhiên, các luật gia có thể cho rằng đó là hành vi làm phương hại đến các nhóm nhạc và đòi bồi thường tổn thất về doanh số bán hàng. Hình thức ghi âm lậu rồi công khai trên mạng Internet cũng là một hành động hết sức phổ biến. Đây là hình thức thu âm lại các tác phẩm âm nhạc mà chưa được chính thức công khai bởi nghệ sĩ hoặc quản lý liên quan của họ. Các bản ghi âm lậu có thể là các bản nháp, tài liệu phòng thu khác hoặc việc ghi âm buổi biểu diễn trực tiếp. Những tài liệu ghi âm lậu được phát tán một cách nhanh chóng trên mạng Internet gây thiệt hại vô cùng to lớn cho nghệ sĩ cũng như công ty sản xuất đĩa nhạc. Vì thế, thậm chí khi một tác phẩm chưa được chính thức phát hành và phân phối chính thức nhưng vẫn được bảo vệ đầy đủ bởi luật bản quyền. Các trang web âm nhạc mà công khai tải lên trang web của mình các tác phẩm âm nhạc chưa được công bố chính thức bị coi là xâm phạm bản quyền qua Internet. Tải xuống và phân phối bất hợp pháp tác phẩm điện ảnh Các bộ phim xúc tiến quảng cáo, xem xét trao giải là những nguồn chính cho việc sao chép bất hợp pháp trên mạng Internet khi các bộ phim này còn đang trình chiếu ở rạp. Các bộ phim thường được tải xuống và phân phối bất hợp pháp dưới các định dạng như Wav, MPEG , Quicktime,... Ngoài ra, các tác phẩm điện ảnh còn bị phân phối bất hợp pháp bằng cách đặt trộm máy quay cá nhân vào rạp chiếu phim và công khai trình chiếu bộ phim đó trên trang web cá nhân. Mặc dù các bản sao như vậy thường có chất lượng thấp hơn đĩa DVD nhưng việc không mất tiền đến rạp chiếu phim hay mua một đĩa DVD chất lượng là một việc vô cùng hấp dẫn đối với những cá nhân yêu thích sử dụng Internet. Tải xuống và phân phối bất hợp pháp phần mềm chương trình máy tính Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt một kết quả cụ thể. [Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, Điều 22]. Việc tải xuống hay phân phối bất kỳ chương trình máy tính nào dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy mà bản thân không viết ra đều bị coi là xâm phạm bản quyền qua Internet. Mua một ứng dụng phần mềm thương mại chỉ có nghĩa là mua quyền sử dụng nó chứ không có nghĩa là được phép phân phối lại nó. Hiện nay có rất nhiều trang web chia sẻ phần mềm trực tuyến bất hợp pháp. Các phần mềm này hầu hết là các phần mềm được download, sao chép, phá mã và phân phối lại thông qua các trang web cá nhân bất hợp pháp. Thực trạng này phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới đặc biệt là Việt Nam. 2.1.3. Hình thức cắt xén, sửa chữa, làm sai lệch tác phẩm văn học Hình thức này ít phổ biến hơn các hình thức khác nhưng cũng thường thấy trên Internet. Các đối tượng của hình thức này thông thường là các tác phẩm văn học, các tác phẩm viết, tranh ảnh, đồ họa hay thậm chí là các tác phẩm âm nhạc, điện ảnh nhưng phổ biến nhất vẫn là các tác phẩm văn học. Hiện nay, sự sẵn có của các kho lưu trữ tác phẩm văn học trên mạng Internet đã tạo điều kiện cho việc download và sửa chữa tác phẩm bất hợp pháp. Các tác phẩm văn học thường bị sửa chữa nội dung, tên nhân vật, và được đưa lên một trang web khác hay các blog cá nhân, diễn đàn... Thực tế này là bức xúc của rất nhiều tác giả về quyền nhân thân của họ. Thực sự, Internet đã tạo ra một môi trường khó kiểm soát đối với kho dữ liệu vô tận của nó. Ngoài ra, hiện nay tại Việt Nam hiện nay, vấn đề lấy hình ảnh tìm kiếm trên mạng Internet để sửa chữa, thay đổi thành tác phẩm của mình rất phổ biến. Các bức ảnh tìm thấy trên mạng Internet được tự do sửa chữa thành các bức tranh biếm họa để làm avatar mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Đặc biệt, hình thức này thường xảy ra trong vấn đề sáng tác tranh ảnh cổ động. Điển hình là đầu năm 2005, bức tranh " Đảng là cuộc sống của tôi" của tác giả Nguyễn Trung Kiên bị phát hiện sao chép và sửa đổi từ bức ảnh " Nụ hôn của gió" từng giành huy chương vàng quốc tế của tác giả Trần Thế Long. Hoặc tiếp đó vào tháng 4 năm 2006, trường hợp tương tự lại xảy ra với bức tranh cổ động " Tất cả trẻ em nghèo được học" của tác giả Chu Ngọc Thăng và bức ảnh " Lớp học vùng cao" của tác giả Lê Hồng Linh. Tất cả các tác phẩm trên đều được chỉnh sửa dựa trên những hình ảnh tìm thấy trên mạng Internet mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu tác phẩm. 2. 2. Bảo vệ chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet 2.2.1. Tự bảo vệ Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp tự bảo vệ như sử dụng các biện pháp công nghệ; yêu cầu tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm; khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. [Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (2005), Điều 198] a) Các biện pháp công nghệ: Các chủ thể quyền sở hữu có quyền sử dụng tối đa các biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Có hai biện pháp công nghệ chính để bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan để ch