Đề tài Vấn đề xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ

Kể từ khi chuyển đổi thành công từ nền kinh tế bao cấp bảo hộ sang nên kinh tế thị trường mở cửa và nhất là đang trên đà tăng trưởng của nền kinh tế,Việt nam ta đã và đang gặt háI được nhiều thành tựu đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế:thị trường xuất khẩu được mở rộng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hơn 24%, đã có những biến chuyển tích cực trong cơ cấu xuất khẩu.

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ Lời mở đầu Nêu tầm quan trọng và mục đích của vấn đề cần nghiên cứu. B/ Nội dung: ChươngI: Vài nét tổng quan quản lý xuất khẩu ngành dệt may ở nước ta I/ Vị trí vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế 1. Vai trò của ngành đối với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá 2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. II/ Quản lý nhà nước về chính sách xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam 1. Thủ tục hải quan - xuất khẩu. 2. Hạn ngạch xuất khẩu. ChươngII: Thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may Việt nam sang thị trường Mỹ trong những năm gần đây và những vấn đề đặt ra. I/ Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. 1. Sự biến đổi về qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. 2. Sự biến đổi về cơ cấu hàng xuất khẩu. 3. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam. II/ Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. 1. Những thuận lợi: Về mặt cơ chế chính sách Về vốn đầu tư và khả năng thu hút vốn Những thuận lợi về nguồn nhân lực 2. Những trở ngại và thách thức của hàng dệt may vào thị trường Mỹ. III/ Bàn về phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ trong những năm tới 1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ 1.1 Phương hướng tổng quát. 1.2 Phương hướng cụ thể. 2. Một số giải pháp và chiến lược Marketing : Tăng cường nghiên cứu thị trường và xây dựng chính sách phù hợp. Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư kết hợp với việc nâng cấp và đổi mới công nghệ. C/ Kết luận : Khái quát một lần nữa về xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Lời nói đầu Kể từ khi chuyển đổi thành công từ nền kinh tế bao cấp bảo hộ sang nên kinh tế thị trường mở cửa và nhất là đang trên đà tăng trưởng của nền kinh tế,Việt nam ta đã và đang gặt háI được nhiều thành tựu đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế:thị trường xuất khẩu được mở rộng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hơn 24%, đã có những biến chuyển tích cực trong cơ cấu xuất khẩu. Những thành tựu đó đã chứng tỏ chiến lược phát triển ngoại thương "Hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu có chọn lọc những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả" mà Đảng và nhà nước ta lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn.Để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những khó khăn mà nền kinh tế nước ta nói chung và hoạt đông thương mại quốc tế nói riêng còn đang phải đương đầu đồng thời cải biến cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tích cực việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm chế biến trong đó có hàng dệt may là rất cần thiết. ở Việt nam, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngành dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Điều này được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục gia tăng trong những năm gần đây, số lượng lao động thu hút ngày càng nhiều chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, đóng góp vào nguồn thu ngân sách và tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể thông qua hoạt động xuất khẩu, các thị trường quốc tế đã không ngừng mở rộng. Ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ có vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nhẹ nói riêng. Ngành đảm bảo hàng hoá tiêu dùng cho nhu cầu trong nước, thu hút nhiều lao động đòi hỏi vốn đẩu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro phát huy hiệu quả nhanh, tạo điều kiện cho hoạt động mở rộng thương mại quốc tế nên phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Với mục đích là tìm hiểu chuyên sâu hơn về thực trạng của xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ em đã chọn đề tài là: " Xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ ". Em xin trân thành bày tỏ lòng biết ơn đến các thày cô bộ môn Marketing Thương Mại quốc tế và đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Hữu Châu đã cung cấp cho em những tài liệu quý báu để em có thể hoàn thành bàI viết của mình. Chương I: Vài nét tổng quan quản lý xuất khẩu ngành dệt may ở nước ta I/ Vị trí vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế: 1.Vai trò của ngành đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Như chúng ta đã biết thì dệt may đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta và là một trong những nghành xuất khẩu thế mạnh, chiếm 1 tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nước nhà. Dệt may vốn là một ngành sản xuất thiết yếu đã xuất hiên từ lâu đời được hình thành và phát triển đầu tiên ở các nước châu Âu. Cùng với tiến trình các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc áp dụng các thành tựu kỹ thuật đã khiến cho ngành dệt may châu Âu đạt tới những bước nhảy vọt cả về chất và số lượng và đem lại thu nhập cao cho người dân và cho nhiều quốc gia. Tuy nhiên, chi phí để trả lương cho công nhân cao dần đã thúc đẩy ngành dệt may chuyển dịch từ các nước phát triển sang các nước chậm phát triển là những nước có nguồn lao động dồi dào với mức giá thuê nhân công rẻ. ở các nước châu á thái bình dương ngành dệt may là ngành khởi đầu cho công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân nhờ công nghệ tương đối đơn giản, cần ít vốn nguồn nhân lực đòi hỏi không ở trình độ cao: Điển hình là các nước NICs, Trung quốc… Hàng dệt may của các nước này chiếm 1/4 hàng dệt và 1/3 tổng khối lượng buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Việt nam vốn đi lên từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thu nhập quốc dân tính theo đầu người rất thấp, phần lớn dân cư sống ở nông thôn với nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp_một khu vực phát triển năng suất và hiệu quả đều thấp. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, chúng ta cần phải thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lợi thế lớn của nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt nam trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá là giá rẻ, nguyên liệu dồi dào. Vì vậy trong giai đoạn đầu lấy công nghiệp hoá là trọng tâm, các nước có hoàn cảnh tương tự như Việt nam cần phát triển mạnh các ngành có khả năng tận dụng những lợi thế có sẵn bởi lẽ chính các ngành này sẽ nhanh chóng tạo ra một tiềm lực công nghiệp mới, nhanh chóng tạo ra nhiều việc làm góp phần đẩy lùi tình trạng thất nghiệp cao, nhanh chóng có thêm nguồn thu nhập và tích luỹ lớn hơn để chuẩn bị cho việc phát triển các tiềm lực lớn hơn. Điều này thể hiện rã nét ở ngành dệt may. Sau nhiều năm phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao ngành dệt may nước ta trở thành một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. Hiện may, ngành không chỉ thoả mãn nhu cảu của thị trường nội địa mà còn là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa, đối với một nước dân số khoảng 78 triệu người có nguồn lao động gần 40 triệu người, chúng ta còn hàng chục triệu người thiếu việc làm và hàng triệu người chưa có việc, ngành dệt may có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm. Ngành dệt may (Nhất là lĩnh vực may) có nhiều công đoạn sản xuất thủ công không đòi hỏi tay nghể cao… nên có khả năng giải quyết viếc làm cho người lao động. Hiện nay, ngành đã thu hút được hơn 500 nghìn lao động trong cả nước , góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo thu nhập và ổn định cho đời sống người lao động. Điều này càng chứng tỏ vai trò to lớn của ngành dệt may trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đài hoá đất nước. 2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế về hướng xuất khẩu. Ngành dệt may có một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phất triển mạnh mẽ theo xu hướng về xuất khẩu. Là một ngành có công nghệ tương đối đơn giản, cần ít vốn việc sản xuất trong lĩnh vực dệt may rất phong phú, phối hợp từ công nghệ dệt may đơn giản nhất thợ may táp nối không cần huấn luyện khá công phu đến những kỹ thuật tiên tiến nhất (thiết kế mẫu, giá mẫu, xắt… bằng hệ thống máy điện toán) điều này cho thấy sự phối hợp của nhiều trình độ công nghệ dẫn đến hiện tượng phổ cập là các nước phát triển nắm những khâu kỹ thuật cao, thu nhiều lợi nhuận nhất; các nước đang phát triển với mức lương nhân công rẻ mạt gia công với những khâu kỹ thuật thấp gia công hàng may mặc với mẫu mã và nguyên liệu phụ liệu đước cung cấp sẵn. Trong quá trình phát triển chúng ta đã chọn con đường tăng trưởng công nghiệp dệt may hướng xuất khẩu. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh và bền vững không phải qua việc chuyên môn hoá ngày càng sâu để sản xuất ra những sản phẩm sơ chế mà là thông qua việc mở rộng các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả cao hơn để khai thác tốt nhất các lời thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia vào ành sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước. Phải luôn đổi mới công nghệ nâng cao năng xuất chất lượng sản phẩm … đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt nam: xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đã và đang sẽ là ngành xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt nam trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40%. Suốt chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Gần chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt lên vị trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam(1998) và đứng thứ 2 (1999) với giá trị xuất khảu gần 1,7 tỉ USD ( Tăng 16% so với năm 1998)là mặt hàng có kim ngạch xuát khảu sau dầu thô_mặt hàng có mức sản lướng xuất khẩu 14,7 nghìn tấn và kim ngạch đạt tới gần 2 tỉ USD. Xuất khẩu hàng dệt may Việt nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước khoảng 300 triệu USD ngành này còn góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động trên mọi miền đất nước. Điều đó có ý nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động . Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và các nước trong khu vức nói riêng , ngành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp tác về các lĩnh vức lao động mậu dịch tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tham gia vào các tổ chức quốc tế khác, ngành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức chi phí sản xuất thấp công nhân cần cù sáng tạo cùng với việc nâng cao chất lượng đặc biệt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thị trường thế giới. Việt nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hoá mậu dịch và thích ứng đước với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế giới. II/ Quản lý nhà nước về chính sách xuất khẩu hàng dệt may ở Việt nam. Thủ tục hải quan - xuất khẩu: Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo qui định chính thức về xuất khẩu hàng hoá và khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Việc làm thủ tục xuất khẩu cho hàng hoá liên quan đến các biện pháp quản lý như: Hạn chế số lượng (giấy phép xuất khẩu) Việt nam vẫn chưa thực hiện mạnh mẽ chính sách xuất khảu hàng dệt may do đó về số lượng vẫn còn bị hạn chế Hạn chế ngoại tệ (giám sát ngoại hối) Hạn chế tài chính (kiểm tra hải quan , thuế quan) Nhu cầu thống kê thương mại (báo cáo thống kê) Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh, y tế, hàng nguy hiểm. Kiểm tra áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế quan ( giấy chứng nhận xuất xứ) Các chứng từ phục vụ cho việc kiểm tra hải quan xuất khẩu hàng hoá bao gồm: Giấy phép xuất khẩu Tờ khai kiểm tra ngoại hối Tờ khai hàng hoá (khai hải quan) Giấy chứng nhận xuất xứ Tờ khai hàng nguy hiểm Hoá đơn lãnh sự (nếu có yêu cầu) hoặc hoá đơn thương mại. Khi làm thủ tục hải quan, thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của người xuất khẩu cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp pháp và đúng qui định không. Những qui định về thủ tục hải quan là đối tượng hàng đầu trong việc đơn giản hoá các thủ tục thương mại quốc tế. Thời gian làm thủ tục các yêu cầu đối với chứng từ là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá công tác đơn giản hoá thủ tục thương mại. Hạn ngạch xuất khẩu: Đối với hàng hoá có hạn ngạch và có giấy phép của Bộ thương mại: Thương nhân có đủ điều kiện theo qui định tại khoản 1, điều 9 nghị định số 57 /1998 /NĐ - CP chỉ được uỷ thác xuất khẩu, nhạp khẩu hàng hoá có hạn ngạch và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ thương mại trong phạm vi số lượng hoặc trị giá ghi tại văn bản pham bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của bộ thương mại. Thương nhân có đủ điều kiện theo qui định tại khoản 2, điều 9 nghị định số 57 /1998/ NĐCP chỉ được nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá có hạn ngạch và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ thương mại trong phạm vi số lượng hoặc giá trị ghi tại văn bản phân bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của bộ thương mại cấp cho thương nhân uỷ thác. Không được sử dụng hạn ngạch hoặc giấy phép do bộ thương mại cấp cho mình để nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp bộ thương mại có qui định riêng về việc uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu một số mặt hàng có hạn ngạch hoặc có giấy phép thì việc uỷ thác được thức hiện theo quy định đó. Đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ quản lý chuyên ngành. Thương nhân có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 9 nghị định số 57 /1998 /NĐCP được uỷ thác hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá quản lý chuyên ngành khi bên uỷ thác hoặc bên nhận uỷ thác có văn bản của bộ quản lý chuyên ngành cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá đó. Chương II: Thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may việt nam sang thị trương mỹ trong những năm gần đây và vấn đề đặt ra. I. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ Sự biến đổi về qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khảu hàng dệt may vào Mỹ. Mỹ là một thị trường rộng lớn giàu tiềm năng mạnh cả về khả năng thanh toán nhưng cạnh tranh cũng rất ác liệt. Bốn năm qua kể từ khi Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt nam, quan hệ buôn bán giữa hai nước phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Đến nay, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt nam và Mỹ đã đạt 1 tỷ USD một năm. Việt nam xuất khẩu sang Mỹ cà phê, dầu thô, giày dép, hải sản, quần áo, hàng dệt may…. và nhập từ Mỹ thiết bị máy móc, nguyên vật liệu. Hiện nay Mỹ là thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may lớn nhất thế giới. Với số dân khoảng 260 triệu người, đa số sống ở thành thị với thu nhập cao. Mỹ nhập khẩu hàng năm từ 40-50 tỷ USD các sản phẩm dệt may từ Trung quốc, Hồng kông, Hàn quốc, Đài loan, Mêxico, EU và Việt nam… trong đó sản phẩm dệt kim chiếm khoảng 40% Do đó Mỹ được xem là thị trường tiềm năng rất lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp chúng ta. Mỹ là thành viên của APEC_khu vực kinh tế châu á thái bình dương, một khu vực có sự phát triển kinh tế hết sức năng động. GDP hàng năm của Mỹ lên tới 8000 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu xấp xỉ 14% buôn bán toàn cầu, trong đó nhập khẩu trên 800 tỷ USD mỗi năm và là nước có sức mua lớn nhất thế giới. Năm 1994 Mỹ đứng thứ nhất về nhập khẩu hàng may và đứng thứ ba về nhập khẩu hàng dệt. Mặt hàng 1995 1996 1997 Hàng dệt thường 22247 22870 25993 Hàng dệt kim 13886 15060 18653 Tổng 36103 37930 44646 Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ qua các năm Đơn vị tính: Triệu USD Từ khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt nam, Mỹ đang dần trở thành thị trường nhập khẩu lớn hàng dệt may của Việt nam. Hàng dệt may Việt nam xuất khẩu Mỹ bao gồm các chủng loại như là sơ mi nam, quần âu, găng tay, áo jacket… trong các năm từ 1994_1999 xuất khẩu dệt may Viêt nam vào thị trường Mỹ tăng với tốc độ cao. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Mỹ đạt 26,3 triệu USD tăng 12,5% so với năm 1997 và tới năm 1999 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã lên tới 33,02 triệu USD Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Trị giá 2,436 15,092 20,013 23,041 26,343 33,026 Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam vào thị trường Mỹ Đơn vị tính: Triệu USD Tuy nhiên so với lượng hàng dệt may Mỹ nhập qua các năm thì giá trị hàng dệt may của Việt nam xuất vào Mỹ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Hiên nay, hiệp định thương mại Việt_Mỹ vừa được ký kết tạo ra những cơ hội lớn từ phía Mỹ dành cho Việt nam quy chế tối huệ quốc, miễn ía thuế do đó hàng dệt may Việt nam có thể triển vọng tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì giá cả hấp dẫn có thể cạnh tranh với hàng dệt may của các nước khác. Đây là một cơ hội rất lớn dành cho ngành dệt may Việt nam. Sự biến đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Bao gồm cả các mặt hàng như quần áo, dệt kim, quần áo may sẵn, khăn mặt, bit tất đen… Hơn nữa sản phẩm may của nước ta không ngừng tăng lên về chất lượng cũng như mẫu mã. Đặc biệt từ năm 1992 trở lại đây những tiến bộ này rất rõ nét, số lượng sản phẩm trong nước tăng lên rõ rệt hàng dệt may xuất khẩu ngoài những mặt hàng truyền thống như quần áo bảo hộ lao động, áo n phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp dệt may gồm hơn 10 chủng loại. Gồm: sợi, vải lụa, vải bạt, jacket… đã có thêm nhiều mặt hàng mới với chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của các thị trường khó tính. Tuy nhiên chủng loại và chất lượng của hàng dệt may xuất khểu vẫn còn nhiều hạn chế. Đáng chú ý là tỷ trọng hàng chất lượng cao trong tổng khối lượng hàng dệt may xuất khẩu vẫn còn nhỏ, nhiều mặt hàng ta chưa sản xuất được . Trong ngành dệt, sản phẩm sản xuất chủ yếu hiện nay là dệt kim. Mặt hàng khăn bông xuất khẩu có thị trường rất lớn nhưng tỷ trọng còn nhỏ bé. Trong ngành may ta mới sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng nhạy cảm, tập trung nhất là những nặt hàng áo jacket, sơ mi nam nữ , áo bảo hộ lao động. Các mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao như comple, veston …. ta chưa đáp ứng được yêu cầu của thụ trường thế giới. Các mặt hàng quần áo dệt kim, vải thun từ nguyên liệu sợi đàn tính cao còn rất ít. Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta còn rất yếu do chưa đước coi trọng đầu tư cơ sở thông tin về mốt và công tác tiếp cận thị trường hàng dệt may của nước ta hiện nay đa phần được sản xuất và xuất khẩu theo mẫu mã của khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên chất lượng hàng dệt may của Việt nam có phần được cải thiện từ chỗ sản xuất các loại sợi chỉ số trung bình (NM40) nay đã nâng lên đến chỉ số bình quân (NM61,22) từ chỗ chúng ta chỉ sản xuất các mặt hàng may mặc trung bình cho Liên xô cũ và các nước Đông âu nay chúng ta đã vươn sang thị trường tư bản và đòi hỏi chất lượng cao như Mỹ, EU… Đặc biệt sản phẩm dệt kim từ chỗ vài loại vải sản phẩm đơn giản mặc nót trong thì nay đã có nhiều chủng loại màu sắc phong phú dùng cho mặc trong, mặc ngoài như áo pull Thành Công, áo T_shirt, áo polo shirt Hà nội, dệt kim Đông Xuân, dệt kim Phương Đông, các loại tất dệt Xuân Đình, dệt Nha Trang….Chất lượng sản phẩm may (áo jacket, sơ mi) và dệt kim (T_shirt, polo shirt) cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại so với các nước trong khu vực như giá cả chưa cạnh tranh được ( đặc biệt so với hàng Trung quốc) vì chi phí sản xuất cao thiết bị nguyên vạt liệu đều nhập khẩu trong khi đó tỷ lệ vải phụ liệu sản xuất trong nước thấp, giá công nhân tuy thấp nhưng năng suất không cao, chi phí khác trong giá thành khá lớn. 3. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam: Theresa Guerro_ chuyên viên thuế quan phân ban dệt may tại cửa khẩu Los Angeles, dự kiến hàng khổng lồ từ Việt nam sẽ thâm nhập vào thị trường Mỹ. Khi Campuchia khởi động thương mại với Mỹ trên quy chế quan hệ thương mại bình thường (NTR) đã bùng nổ số hàng dệt may xuất khẩu từ Campuchia vào thị trường Mỹ với nức kim ngach 7,7 triệu USD năm 1996_1997 lên 171 triệu USD năm 1997_1998 , trong khi đó so với Campuchia hàng dệt may Việt nam có nhiều ưu thế hơn… Lạc quan nhưng dè dặt vụ khoa học bộ thương mại cho rằng mặc dù thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ lớn hơn cả EU, song lâu nay Việt nam mới xuất khẩu được một số loại vải thô, vải cotton, dệt may…. sang Nhật, Canada, EU với kim ngạch không đá
Tài liệu liên quan