Đề tài Văn hóa dân tộc Dao và lễ cấp sắc của dân tộc Dao

Dân tộc Dao là một dân tộc chủ yếu, lớn và sống trên một số điểm du lịch nổi tiếng như Sapa, Bắc Hà. Sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây và văn hoá phong tục sẽ là yếu tố thúc đẩy du lịch ở những địa phương này phát triển. Dân tộc Dao lưu giữ khá nhiều phong tục hay, độc đáo trong đó có lễ cấp sắc phong tục này đang và sẽ thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu văn hoá trong và ngoài nước cũng như du khách từ khắp nơi đến khám phá và tìm hiểu. Chính vì vậy nó là một trong những tiềm năng du lịch cần được khai thác phục vụ cho du lịch. Riêng cá nhân tôi, từ xưa tôi có mối quan tâm đặc biệt đến phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số và dân tộc Dao đối với tôi là một đề tài phong phú càng khai thác tìm hiểu tôi càng thấy thêm phần thú vị. Như trên tôi đã trình bày, phong tục tập quán là một đối tượng của du lịch văn hoá. Với bài nghiên cứu nhỏ này tôi mong muốn giới thiệu chi tiết một phong tục đẹp để từ đó, quảng bá, giới thiệu cho du khách về văn hoá Việt Nam nói chung và của dân tộc Dao nói riêng.Vậy tôi chọn đề tài: “Văn hóa dân tộc Dao và lễ cấp sắc của dân tộc Dao” Phương pháp nghiên cứu Tôi sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, thực tế (tại Bảo tàng dân tộc học). Bài nghiên cứu của tôi gồm 5 chương. + Chương I: Tên gọi và đặc điểm của lễ cấp sắc. + Chương II: Vài nét về trình tự tiến hành lễ cấp sắc. + Chương III: Lễ cấp sắc và bản sắc của văn hoá Dao. + Chương IV: Một số hạn chế của lễ cấp sắc. + Chương V: Vài nhận xét và ý nghĩa của lễ cấp sắc trong hoạt động du lịch.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Văn hóa dân tộc Dao và lễ cấp sắc của dân tộc Dao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Dân tộc Dao là một dân tộc chủ yếu, lớn và sống trên một số điểm du lịch nổi tiếng như Sapa, Bắc Hà. Sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây và văn hoá phong tục sẽ là yếu tố thúc đẩy du lịch ở những địa phương này phát triển. Dân tộc Dao lưu giữ khá nhiều phong tục hay, độc đáo trong đó có lễ cấp sắc phong tục này đang và sẽ thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu văn hoá trong và ngoài nước cũng như du khách từ khắp nơi đến khám phá và tìm hiểu. Chính vì vậy nó là một trong những tiềm năng du lịch cần được khai thác phục vụ cho du lịch. Riêng cá nhân tôi, từ xưa tôi có mối quan tâm đặc biệt đến phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số và dân tộc Dao đối với tôi là một đề tài phong phú càng khai thác tìm hiểu tôi càng thấy thêm phần thú vị. Như trên tôi đã trình bày, phong tục tập quán là một đối tượng của du lịch văn hoá. Với bài nghiên cứu nhỏ này tôi mong muốn giới thiệu chi tiết một phong tục đẹp để từ đó, quảng bá, giới thiệu cho du khách về văn hoá Việt Nam nói chung và của dân tộc Dao nói riêng.Vậy tôi chọn đề tài: “Văn hóa dân tộc Dao và lễ cấp sắc của dân tộc Dao” Phương pháp nghiên cứu Tôi sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, thực tế (tại Bảo tàng dân tộc học). Bài nghiên cứu của tôi gồm 5 chương. + Chương I: Tên gọi và đặc điểm của lễ cấp sắc. + Chương II: Vài nét về trình tự tiến hành lễ cấp sắc. + Chương III: Lễ cấp sắc và bản sắc của văn hoá Dao. + Chương IV: Một số hạn chế của lễ cấp sắc. + Chương V: Vài nhận xét và ý nghĩa của lễ cấp sắc trong hoạt động du lịch. CHƯƠNG I TÊN GỌI VÀ ĐẶC ĐIỂM LỄ CẤP SẮC Lễ cấp sắc là một trong những nghi lễ được người Dao coi trọng. Tuy nhiên tên gọi của nó vẫn còn là vấn đề tranh luận. Tên gọi “cấp sắc” được chủ yếu các nhà khoa học sử dụng. Thuật ngữ này xuất phát từ chỗ là người trải qua lễ cấp sắc được thầy cúng cho một bản sắc ghi bằng chữ Nôm Dao với nội dung là lai lịch của người thụ lễ, lý do thụ lễ, các điều giáo huấn… Bản sắc này giống như chứng chỉ cho phép người đã qua cấp sắc được cúng bái hoặc chữa bện… và có một vị thế nhất định trong cộng đồng đó. Ngoài tên “cấp sắc” còn có xuất hiện một số tên gọi khác như lễ: “cấp tinh”, “lập tịch”, “cấp tính”… thuật ngữ “cấp tinh” có nghĩa là làm trong sạch bởi vì trong lễ cấp sắc người ta thắp đèn soi ság người thụ lễ với mục đích làm bay đi những tạp uế và những tội lỗi ở con người đó. Còn lễ “cấp tính” hay “lập tịch” tức là lễ nhập họ do việc đặt tên mới và điều chỉnh tên họ của người thụ lễ cho phù hợp với ngôi thứ trong dòng họ. Trong khi đó, có rất nhiều nhà nghiên cứu văn hoá từ các nước khác nhau lại có những tên gọi khác. Ví dụ nhà khoa học ở Trung Quốc gọi nó là “lễ độ giới”, ở Nhật Bản người ta gọi đó là “lễ qua tang”, ở Pháp là “lễ gia nhập Đạo giáo”… Như vậy, đối với các nhà nghiên cứu, tên gọi của lễ cấp sắc cũng rất khác nhau. Ngay bản thân người Dao tên gọi của nghi lễ này cũng rất đa dạng. Họ có hơn 10 cách gọi tên. Ví dụ, người Dao tiền thường gọi là lễ “qua tang”. “Qua” tức là trải qua hoặc được thử thách còn “tang” là đèn hoặc vật dùng để thắp sáng! Bởi vậy tên gọi “qua tang” có nghĩa là trải qua lễ soi đèn hay nến soi sáng người thụ lễ trong tiến trình cấp sắc. Tên gọi này đồng nghĩa với tên gọi “cấp tinh” mà một số nhà khoa học dùng. Có một số nhóm Dao như Dao Đỏ, Dao tiền… còn gọi lễ “cấp sắc” là “tạt phat búa” nghĩa là lễ đặt pháp danh. Không ít trường hợp người ta cũng gọi đó là lễ “chấu đàng” nghĩa là cúng ông tổ người Dao là Bàn vương. Riêng đối vớ lễ cấp sắc ở cấp bậc cao hơn thì người Dao gọi là “tẩu sai” tức là lễ cấp chứng chỉ cho người được làm thầy cúng. Tên gọi này đồng nghĩa với tên gọi “cấp sắc” mà nhiều nhà khoa học nước ta sử dụng. Ngoài ra ở người Dao Đỏ và Dao tiền còn có nhiều tên gọi khác để chỉ lễ cấp sắc như “chẩu lung hìn” (lễ cầu phúc cho dòng họ), “Mài sai tía” (có thày cúng đỡ đầu), “chẩu tôm bung hìn” (lễ cầu phúc lớn)… Tóm lại tên gọi của lễ cấp sắc khá phong phú. Điều này dự đoán lễ cấp sắc khá phức tạp và có một ý nghĩa tương đối quan trọng trong đời sống văn hoá, xã hội và tinh thần của người Dao. Về đặc điểm, nếu dựa vào số lượng đền hoặc nếp thắp sáng để soi người thụ lễ trong mỗi đợt làm lễ thì hiện nay có 3 cấp bậc: + Cấp thấp nhất là 3 đèn: người thụ lễ được soi bởi 3 đèn. + Cấp thứ hai là 7 đèn: người thụ lễ được đặt 7 cây đèn. + Bậc cao nhất là 12 đèn: người thụ lễ đội 12 đèn đang tỏa sáng. Lễ cấp sắc luôn gắn liền với yếu tố tôn giáo, văn hoá, văn nghệ của người Dao. Đặc biệt chỉ có người đàn ông Dao thụ lễ cấp sắc, còn phụ nữ thì phụ thuộc vào vị thế của người chồng. CHƯƠNG II TIẾN TRÌNH CỦA LỄ CẤP SẮC 1. Chuẩn bị cho lễ cấp sắc -Để chuẩn bị cho lễ cấp sắc 3 đèn cần 6 tháng chuẩn bị nếu ở cấp cao hơn thì chuẩn bị từ 1 - 2 năm, thậm chí còn lâu hơn. Việc đầu tiên phải chuẩn bị là nuôi 2 con lợn dùng cho việc tế lễ. Cùng với việc nuôi lợn phải tích cực sản xuất để có nhiều lương thực, thực phẩm phục vụ cho những ngày lễ. Khâu chuẩn bị tiếp theo là may, thêu lễ phục cho người thụ lễ. Cách may, trang trí lễ phục của các nhóm Dao là khác nhau. Các công việc như làm ghế để người thụ lễ ngồi khi thụ lễ, tu sửa kiểm tra những nhạc cụ hoặc các vật dụng khác có liên quan. Gần đến ngày thụ lễ, gia đình làm lễ cần tiến hành giã gạo, cất rượu, mua hương sắm giấy dó để làm tiền âm phủ, chuẩn bị nến hoặc dầu đốt đèn thật kỹ. Sau đó cử người đi tìm thầy cúng kể cả người giúp việc. Số thầy cúng được mời đến phải bằng số cấp bậc của nghi lễ. Nghĩa là lễ cấp sắc 3 đèn thì cần mời 3 thầy cúng, lễ cấp sắc 7 đèn cần mời 7 thày cúng. Ngoài ra còn mời một số thanh niên nam và nữ chưa có gia đình đến hát trong lúc làm lễ. Như vậy công việc chuẩn bị đòi hỏi phải có thời gian và phải chuẩn bị nhiều thứ. Qua đó có thể thấy được những tập quán của người Dao về số lượng các lễ vật để tế lễ cấp sắc, điều kiện và số lượng người được mời đến hành lễ hoặc phụ giúp cho lễ cấp sắc. 2. Tiến trình của lễ cấp sắc Một lễ cấp sắc thường có nhiều công đoạn phức tạp tuỳ thuộc vào cấp bậc và nhóm địa phương. Sau đây tôi xin đưa ra ví dụ lễ cấp sắc 3 đèn của nhóm Dao nói phương ngữ Kiềm Miền làm ví dụ. Lễ cấp sắc này diễn ra 2 ngày và có thể chia làm 2 bước lớn là: thụ đèn và cúng Bàn Vương hoặc lễ cấp sắc 3 đèn của nhóm Dao tiền của nước ta. * Bước thụ đèn: Mở đầu cho bước này, người ta trang trí bàn cúng, treo tranh thờ. Để 2 bàn cúng ở gian giữa của nhà đối diện với cửa chính, trên bàn cúng có một bát hương, 3 chiếc bát con để rót rượu mời các thần linh, 1 bát gạo, 1 bát nước, 1 bát củ gừng tươi. Riêng bàn cúng của ông thầy cúng thứ nhất có thêm 3 bát con, trong mỗi bát đựng một ít dầu và có bấc để soi sáng người thụ lễ. Phía trên cửa chính gian giữa nhà là nơi diễn ra các chi tiết của lễ cấp sắc, ở trên tường phía sau bàn cúng treo 10 tở tranh thờ do thầy cúng mang đến. Sau khi chuẩn bị xong, người giúp việc lấy một chiếc chổi mới vừa đọc thần chú vừa giả vờ quét nhà nhằm mục đích tẩy uế, xua đuổi những “điềm xấu” ra khỏi nhà để lễ cấp sắc diễn ra thuận buồm xuôi gió. Kể từ thời điểm này tất cả mọi người trong gia đình phải tuân thủ một số tập quán kiêng kị khá nghiêm ngặt như à không mang áo tang, nam nữ không được trêu ghẹo, nói tục, không cãi nhau… Tiếp theo 2 thầy cúg chủ trì mặc lễ phục để cúng mời các tỏ tiên, thần phật và các thần linh khác đến dự lễ. Trong nghi thứ này và các nghi lễ tiếp theo thầy cúng chủ trì thứ nhất và thầy cúng chủ trì thứ 2 chỉ được phép cúg ở bàn cúng của mình, còn trên bàn thờ tổ tiên để bày các lễ vật. Ngoài việc cúng Bàn Vương, cúng tổ tiên, thần chăn nuôi… các thầy cúg còn phải cúng để mời các thần linh của mình như ma của các thầy cấp sắc, các loại âm binh được cấp sắc, các thần linh được vẽ trong tranh… Sau lễ cúng này, anh em họ hàng múa những bài múa cổ truyền về tổ tiên trong tiếng chiêng, trống và chuông nhạc đệm làm cho không khí rộn ràng như trong ngày hội. Tiếp đến, 2 thầy cúng tiếp tục cúng để xin phép các thần linh phù hộ và chứng kiến lễ soi đèn cho người thụ lễ. Sau đó, người ta đặt một cái ghế giữa nhà cho người thụ lễ ngồi, thầy cúng thứ nhất đọc lại lịch của anh ta và yêu cầu các thần linh cởi bỏ những sự dốt nát trong người thụ lễ và thay vào đó là sự thông minh. Tiếp theo, người giúp việc đốt 3 cái bấc trong 3 bát dầu đã được đặt sẵn ở trên bàn cúng để cho hai thầy cúng và người bố đẻ của người thụ lễ đặt lên đỉnh đầu và hai vai của người thụ lễ. Nếu bố đẻ của người thụ lễ chết thì phải chọn một người khác có uy tín và sau khi người này chết thì âm hồn của ông ta sẽ nằm trong nhóm ma của các thầy cấp sắc của người thụ lễ. Về sau, nếu người thụ lễ trở thành thầy cúng, mỗi lần đi hành lễ phải mời nhóm ma này đi để phù hộ. Khi đèn được đặt lên người thụ lễ thì có người khác giữ đèn để khỏi đổ, còn người bố đẻ và hai thầy cúng vừa đi vừa múa vòng quanh người thụ lễ khoảng từ 10 đến 15 vòng. Các nghi lễ tiếp theo là hạ đèn, đặt pháp danh, cúng dụng cụ cúng bái và cấp âm binh cho người thụ lễ. Những nghi lễ này diễn ra trang nghiêm vì đó là mục đích của lễ cấp sắc. Một nghi lễ khá quan trọng không chỉ thể hiện tính tôn giáo mà còn có ý nghĩa giáo dục đó là lễ cấp Pháp trong lễ cấp sắc. Lần lượt, thầy cùng thứ nhất, thầy cúng thứ hai và bố đẻ người thụ lễ mỗi người bốc một ít gạo ở bàn cúng và cầu khấn âm binh cùng các thần ma của các thầy cấp sắc cho mình trước đây rồi cho vào mồm nhai và phun về phía người thụ lễ. Người thụ lễ nâng vạt áo để hứng. Đối với người Dao thì nghi lễ này thể hiện sự phụ thuộc của người thụ lễ vào các thầy cúng và bố đẻ của mình. Cụ thể là về mặt tâm linh, có sự hoà hợp giữa hai thế hệ người thụ lễ và thế hệ đến hành lễ trên cơ sở phụ thộc về âm binh, pháp danh. Còn về mặt luật tục, từ nay trở đi, người thụ lễ phải tuyệt đối trung thành với bố đẻ và các thầy cúng. Tiếp theo, thầy cúng thứ hai hướng dẫn người thụ lễ mua hoảng 7 bài múa cổ, chủ yếu là múa về tổ tiên, thổ địa, thổ công… Họ vừa múa vừa dâng bánh nếp và rượu của người thụ lễ cho các thần linh và tổ tiên. Quá trình múa này kéo dài từ 4 đến 5 giờ có sử dụng một số nhạc cụ như chiêng, trống và người múa phải đeo mặt nạ. Tiếp đến là anh em họ hàng nhảy múa góp vui cho nghi lễ. Họ có thể múa bất cứ điệu múa nào và có thể múa hàng chục người. Tiếp theo thầy cúng được mời múa đến múa 7 bài múa khác nhau để dâng bánh cúng và rượu cho các thần linh. Sau khi hai thày cúng chủ trì, thày múa và người giúp việc làm lễ cúng để tiễn đưa các thần linh ra về thì kết thúc lễ thụ đèn. Người ta dọn các loại nhạc cụ và các tờ tranh chuẩn bị cho bước hai là lễ cúng Bàn Vương. Sau khi thực hiện xong các nghi lễ trên, người thụ đèn được coi là “người lớn” bởi vì anh ta được thụ đèn, được cấp âm binh và các vật dụng để cúng bái đặc biệt là pháp danh và có ma tổ sư của nghề cúng. *Bước cúng ông tổ người Dao. Đầu iên là bày bàn cúng, làm lễ cúng mời các bậc tổ tiên và Bàn Vương đến dự lễ. Sự chuẩn bị được bắt đầu bằng việc thịt 2 con lợn và làm sạch để bày lên bàn cúng, cắt giấy bản để làm tiền âm phủ. Bàn để cúg Bàn Vương được đặt ở trong nhà nơi đối diện với cửa chính chỗ sát vách ngăn giữa gian khách và gian buồng, còn bàn cúng gia tiên thì đặt ngay trước bàn thờ tổ tiên. Các lễ vật đặt trên bàn cúng gồm có một con lợn móc hàm chưa luộc, để úp sấp trên bàn, 3 bát con để rót rượu mời ma, 2 bát củ gừng tười, 1 bát nước lã, 1 bát gạo, 1 bát hương và nhiều tiền âm phủ. Khi chuẩn bị xong thày cúng thứ nhất mặc lễ phục mời bậc thần linh và tổ tiên đến dự lễ. Đồng thời 3 thiếu niên và 3 thiếu nữ đứng thành 2 hàng ở phía sau thày cúng để vái chào các bậc tổ tiên và thần linh. Tiếp theo là hát và đọc thơ cho các bậc tổ tiên nghe. Người ta đặt thêm một bàn cúng ở gần bàn cúng Bàn Vương để bày 3 bát thịt lợn chín, 3 bát rau cải nấu, 1 chai rượu, 6 chiếc bát ăn cơm, 6 đôi đũa và 1 quyển sách cúng. Hai thày cúng chủ trì, thày cúng múa và 3 người đàn ông khác được mời đến ngồi vào bàn đọc thơ được ghi chép trong quyển sách cúng. Quá trình này kéo dài hơn 3 tiếng. Sau khi cúng cầu các bậc tổ tiên và các thần linh phù hộ cho gia đình, đốt vàng mã và đưa tiễn thần linh thì kết thúc lễ cúng Bàn Vương, đồng thời lễ cấp sắc kết thúc. Như vậy, tiến trình của một lễ cấp sắc rất phức tạp, nó gồm rất nhiều nghi lễ nhỏ. Riêng lễ cấp sắc 7 đèn và 12 đèn có một số sự khác biệt với nghi lễ được trình bày ở trên. Thời gian hành lễ 7 đèn khoảng 4 ngày, với lễ 12 đèn là từ 5 - 7 ngày. CHƯƠNG III LỄ CẤP SẮC VÀ BẢN SẮC VĂN HOÁ DAO 1. Quan niệm về thế giới tâm linh thể hiện ở lễ cấp sắc Người Dao duy trì lễ cấp sắc từ thế hệ này sang thế hệ khác là nhờ có sự gắn kết với các yếu tố tâm linh phong tục, tập quán. Với thế giới xung quanh, người Dao quan niệm thế giới có 3 tầng, tầng trên là nơi sống của các vị thần và người khổng lồ, tầng giữa là quê hương của người sống, tầng dưới là thế giới của người lùn. Người ở tầng trên thì đeo dao ở cổ, người sống đeo dao ở lưng, người lùn thì đao dao ở bắp chân. Thế giới và sự sống đều do một ông thần tạo ra, ông thần này cũng tạo ra các vị thần linh khác nhau cai quản ở mọi lĩnh vực. Ví dụ ở trên trời có Ngọc hoàng, thần sấm, thần sét… ở dưới nước có hà bá, tầng thế giới người sống có thổ công, thổ địa, thần lúa gạo… Ngoài ra còn có các loại ma và tổ tiên. Dù cho rất nhiều loại thần linh và ma nhưng người Dao phân ra làm hai loại: tà và lành. Những linh thân và ma là lành khi giáng phúc lành, giúp đỡ con người, gia súc như thần lúa gạo, thổ công, thổ địa. Loại ác là những con ma thường tác quái với con người, làm hại vật nuôi và cây trồng như ma núi, ma sông, ma suối, ma của những người chết không bình thường. Như vậy để đảm bảo cho cuộc sống an cư người Dao phải cúng tế cầu nguyện các thần linh và ma lành che chở, làm lễ trừ bỏ ma ác. Nhưng chỉ có những người au lễ cấp sắc mới có thể tiến hành các lễ như thế. Xong lễ cấp sắc, người thụ lễ được cấp các loại dụng cụ dùng để cúng bái, các thủ thuật để xin sự che chở từ ma lành, các loại âm binh bảo vệ người được cấp sắc hoặc các thủ thuật phòng trừ tà ma. 2. Đặc điểm tôn giáo tín ngưỡng thể hiện qua lễ cấp sắc Qua lễ cấp sắc, ta nhận thấy rằng người Dao chịu ảnh hưởng từ nhiều tôn giáo mà đầu tiên là Đạo giáo. Yếu tố Đạo giáo thể hiện ở các bức tranh thờ, quan điểm về Ngọc hoàng, thái thượng Lão quân. Cùng với Đạo giáo là yếu tố Phật giáo. Đó là việc ăn chay, cấm phá giới, cấm người hành lễ và người thụ lễ sát sinh, cấm nam nữ nô đùa. Ngoài ra các thầy cúng và người thụ lễ chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi. Hình thức thờ cúng tổ tiên thể hiện khá rõ nét trong toàn bộ lễ cấp sắc. Trong cả quá trình hành lễ, các thầy cúng đều cúng gọi đến các bậc tổ tiên dòng họ và của người thụ lễ, đặc biệt là ông tổ của người Dao - Bàn Vương. Yếu tố vạn vật hữu linh cũng xuất hiện đó là việc cúng các thần lúa gạo, thần thổ công, thổ địa. Ngoài ra còn có sự góp mặt của Nho giáo trong mối quan hệ cha - con, thày - trò. Như vậy ta có thể thấy khá nhiều tôn giáo trong lễ cấp sắc. 3. Sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật trong lễ cấp sắc Trong lễ cấp sắc người ta treo khá nhiều những bức tranh có giá trị. Với lễ cấp sắc 3 đèn thì treo 6 tờ tranh, lễ 7 đèn thì treo 24 tờ tranh, với lễ 12 đèn thì treo rất nhiều. Ở trong các bức tranh này phản ánh nhều lĩnh vực, từ các vị thần linh đến các cảnh sinh hoạt đời thường. Một yếu tố nữa đó là trang phục của thầy cúng. Những trang phục này làm khá công phu, được may thêu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trang phục ở các nhóm Dao khác nhau đều có sự tương đồng nhất định. Nghệ thuật biểu diễn trong lễ cấp sắc khá độc đáo. Trước hết là múa, múa được trình diễn trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ. Có thể chia ra làm hai loại, múa có hát và múa không có hát. Múa có hát là múa phỏng theo các bài hát hoặc thơ cúng. Hát múa có kèm cả tiếng chiêng và tiếng trống đệm theo. Múa không hát là múa chỉ được đệm bằng các nhạc cụ như trống, chiêng, chuông… Ngoài nghệ thuật biểu diễn, còn có hình thức hát đối đáp giữa ba đôi nam nữ thanh niên, họ hát rất nhiều bài hát nói lên ước mơ, tình yêu, cách sống, đạo đức. 4. Phong tục tập quán của người Dao thể hiện trong lễ cấp sắc Lễ cấp sắc là một nghi lễ quan trọng của người Dao trong quan niệm của họ, có 3 nghề được tôn trọng nhất là dạy học, cúng bái và chữa bệnh. Lễ cấp sắc đánh dấu bước ngoặt của người thụ lễ, từ đó người thụ lễ có pháp danh, được coi là trưởng thành và được tiến hành một số lễ quan trọng hoặc được xem sách chọn ngày tháng đẹp mở đầu cho những ngày trọng đại, được đại diện cho gia đình trong việc tiếp khách là thầy cúng, đi đưa đám… Đối với dòng họ, họ là niềm tự hào, đại diện dân làng thực hiện nghi lễ lớn. Người thụ lễ này có thể đi làm lễ cấp sắc cho người khác, làm thày khi chôn cất người chết. Người Dao nghĩ rằng chỉ những người qua lễ cấp sắc mới có tâm đức và hiểu sâu sắc văn hoá phong tục. Người thụ lễ sau đó thực hiện các nghi lễ liên quan đến phong tục mới được thần linh bảo vệ, trợ giúp, tránh được rủi ro. 5. Tính giáo dục cộng đồng trong lễ cấp sắc Trong điều giáo huấn tuyệt đối người thụ lễ kiêng kị làm việc ác. Chẳng hạn 10 điều cấm và 10 điều nguyện: -10 điều cấm: + Cấm con không giết sinh giới + Cấm con không được chửi thần trời, đất, mặt trăng. + Cấm con không ham sắc, ham tài. + Cấm con không gian dâm. + Cấm con không trọng giàu, khinh nghèo. + Cấm con không khinh thường anh em, bạn bè. + Cấm con thấy người gặp nạn không giúp. + Cấm con không phạm thượng vô lễ với các thánh thần. - 10 điều nguyện: + Nguyện linh thiêng + Nguyện giữ thân trong sạch + Nguyện không đa nghi + Nguyện thất tinh phù hộ. + Nguyện Tam nguyên cứu giúp + Nguyện bát quái hiện hình + Nguyện tứ thánh phát binh + Nguyện cửu quyết khai thai + Nguyện Ngũ sư phù hộ. + Nguyện thập phân vẹn mười. Như vậy cũng tương tự một số tộc người Việt Nam khác, người Dao luôn coi trọng việc giáo dục. Họ giáo dục sự tôn kính các thầy cúng làm lễ cấp sắc, biết ơn cha mẹ, thuỷ chung với bè bạn, trọng nghĩa khinh tài, lòng vị tha và lòng dũng cảm, sống chân thành có tước có sau. Ngoài ra lễ cấp sắc còn khuyên dạy con người tôn trọng và giữ gìn những phong tục tập quán dân tộc. Hơn nữa trong lễ cấp sắc ta có thể thấy rất nhiều tờ tranh thể hiện hình ảnh các thần linh. Sau lễ cấp sắc các vị thần linh này luôn bên cạnh người thụ lễ. Vì thế anh ta có ý thức tự tu dưỡng đạo đức nếu không sẽ bị các thần linh phạt. Có thể nói lễ cấp sắc giúp con người vươn đến lối sống tốt đẹp, luôn hướng đến điều đạo đức tốt đẹp, giữ gìn và tôn trọng những giá trị truyền thống. CHƯƠN IV MỘT SỐ HẠN CHẾ Xét về một góc độ nào đó lễ cấp sắc của người Dao cũng có một số hạn chế nhất định nhất là trong điều kiện sống hiện nay của đồng bào người Dao này. Trước hết nó tự phản ánh sự phân tầng giai cấp khá rõ rệt trong cộng đồng. Họ có một số vị trí tương đối trong dòng họ và làng bản. Những người chia được thụ lễ được xem là trẻ con và không có vị thế trong xã hội. Trong trường hợp gia đình nào đó không có khả năng tổ chức lễ cấp sắc thì được coi là nghèo và bị chê cười. Rõ ràng lễ cấp sắc đã tạo điều kiện cho hình thành sự phân tầng xã hội. Như trên đã phân tích lễ cấp sắc cũng gây ra sự tốn kém cho gia đình. Một lễ cấp sắc phải được chuẩn bị khá chu đáo cả về vật chất và tinh thần. Trên đây là lễ cấp sắc cho một người con trai. Nếu trong một gia đình nhiều con trai thì đó quả là một vấn đề khá lớn.ư Ngoài ra, trong lễ cấp sắc ta có thể nhận thấy vị thế của người phụ nữ trong cộng đồng. Khi chồng họ được phong sắc thì họ cũng được tôn trọng và ngược lại. Người phụ nữ có chồng chưa làm lễ cấp sắc thì khi chết sẽ không được chôn cất. Như vậy là vị thế người phụ nữ chịu ràng buộc vào chồng họ, nên lễ cấp sắc tạo điều kiện cho việc đánh giá sai lệch vị thế của người phụ nữ so vơi người đàn ông. Tuy có một số hạn chế nhưng lễ cấp sắc đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao, việc giữ gìn bản sắc dân tộc đồng nghĩa với việc giữ gìn những nghi lễ đặc trưng và lễ cấp sắc là một ví dụ điển hình. CHƯƠNG V MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ Ý NGHĨA CỦA LỄ CẤP SẮC ĐỐI VỚI DU LỊCH VĂN HOÁ SAPA Lễ cấp sắc là một
Tài liệu liên quan