Ngày nay, khi đất nước ta đang bước vào một nền kinh tế mở, một nền kinh tế toàn cầu hoá, đòi hỏi mỗi cá nhân khi bước vào nền kinh tế phải có sự hiểu biết nhất định về nó.
Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn các nguồn lực khan hiếm của con người nhằm giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản của xã hội là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
25 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việc tìm hiểu về mục tiêu sản lượng và việc làm của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN II NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ CHỦ YẾU 3
1.1. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình Đại học. 3
1.1.1 Giới thiệu môn học. 3
1.1.2. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học. 3
1.2. Phân tích các chức năng của chính phủ và các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. 4
1.2.1. Phân tích các chức năng của chính phủ được thể hiện bằng 3 chức năng. 4
1.2.2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. 5
1.3. Trình bày một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng và vai trò của việc xác định các chỉ tiêu đó trong phân tích kinh tế vĩ mô. 6
1.3.1. Một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng. 6
1.3.2. Vai trò của GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô. 8
1.4. Trình bày các vấn đề liên quan đến thất nghiệp phân tích các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. 8
1.4.1. Các vấn đề liên quan đến thất nghiệp 8
1.4.2. Các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. 10
1.5. Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu sản lượng và mục tiêu việc làm. 11
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU SẢN LƯỢNG VÀ VIỆC LÀM CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2005 - 2008 12
2.1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam để đưa ra lý do phải thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm trong thời kỳ 2005 - 2008. 12
2.2 Trình bày các chính sách mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để thực hiện hai mục tiêu trên. 13
2.3. Thu thập số liệu về GNP (GDP), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam thời kỳ 2005 - 2008. 15
2.4. Phân tích số liệu thu thập được và trình bày quan điểm của mình về cách sử dụng chính sách nhằm vào mục tiêu sản lượng và việc làm. 17
2.4.1. Phân tích số liệu thu thập được. 17
2.4.2. Quan điểm về cách sử dụng chính sách về mục tiêu sản lượng và việc làm. 19
PHẦN III KẾT LUẬN 21
Kết luận 21
Kiến nghị: 22
PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi đất nước ta đang bước vào một nền kinh tế mở, một nền kinh tế toàn cầu hoá, đòi hỏi mỗi cá nhân khi bước vào nền kinh tế phải có sự hiểu biết nhất định về nó.
Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn các nguồn lực khan hiếm của con người nhằm giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản của xã hội là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Trong kinh tế học có kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô nghiên cứu các hành vi đơn lẻ của các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Còn kinh tế học vĩ mô, lại nghiên cứu nền kinh tế dưới góc độ tổng thể, nghiên cứu các vấn đề chủ yếu của một quốc gia như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp ảnh hưởng của các chính sách kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hoá và sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Việc tìm hiểu về mục tiêu sản lượng và việc làm của Việt Nam là việc đánh giá một phần nào đó về nền kinh tế Việt Nam, qua đó thấy được các chính sách của chính phủ Việt Nam để thực hiện 2 mục tiêu trên có gì là đúng hay còn có những phần chưa đúng. Để đánh giá một cách chính xác nhất, đầy đủ và đúng đắn nhất đòi hỏi mỗi sinh viên khi làm về đề tài này cần phải có sự lựa chọn đúng đắn và phải có hiểu biết, có sự tìm tòi về các hoạt động kinh tế một cách đầy đủ và có hệ thống. Việc phân tích mục tiêu sản lượng và việc làm giúp mỗi sinh viên, những người tri thức trẻ biết cách điều tiết nền kinh tế sao cho có sự cân đối giữa chúng bằng chính năng lực, sự hiểu biết và lòng nhiệt tình của lớp trẻ.
PHẦN II
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ CHỦ YẾU
1.1. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình Đại học.
1.1.1 Giới thiệu môn học.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô: Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân hay nói một cách khác kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Trong đó tỷ lệ thất nghiệp, mức tăng trưởng của một quốc gia là bao nhiêu năm ... gọi là nhận định thực chúng. Các nhận định mang tính chủ quan tuỳ thuộc vào đạo lý, tôn giáo như tỷ lệ lạm phát ở mức nào là phù hợp... được gọi là nhận định chuẩn tắc.
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô: Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường hàng hoá và các nhân tố, xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng. Ngoài ra kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến như: tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích thống kê số lớn, mô hình hoá kinh tế.
1.1.2. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học.
Môn học kinh tế vĩ mô giúp cho mỗi sinh viên khi được học về nó có thể đánh giá được tình hình kinh tế của quốc gia. Kinh tế học còn liên quan chặt chẽ với nhiều môn khoa học xã hội khác như: Triết học, kinh tế chính trị, sử học, xã hội học... nên khi tìm hiểu về môn học kinh tế vĩ mô giúp cho ta hiểu thêm về xã hội.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào ràng buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị, xã hội. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế.
1.2. Phân tích các chức năng của chính phủ và các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu.
1.2.1. Phân tích các chức năng của chính phủ được thể hiện bằng 3 chức năng.
* Chức năng hiệu quả.
Khi thất bại của cơ chế thị trường xuất hiện làm giảm hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng, tình trạng này xuất hiện khi có cạnh tranh không hoàn hảo hay có nhân tố độc quyền, để khắc phục tình trạng này, chính phủ có thể đề ra các đạo luật chống độc quyền.
Hạn chế "tác động bên ngoài" là những tác động, những ảnh hưởng diễn ra bên ngoài thị trường của hoạt động của doanh nghiệp hoặc cá nhân mà doanh nghiệp hoặc cá nhân này không phải trả đúng chi phí hoặc nhận đúng số tiền cần được trả của những tác động này. Để hạn chế tác động bên ngoài chính phủ đề ra luật lệ điều tiết nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực như ô nhiễm nước không khí, chất thải gây nguy hiểm, các chất phóng xạ.... Ví dụ một nhà máy điện chạy bằng than nhả khói làm ô nhiễm môi trường xung quanh mà không phải trả lệ phí cho những người sống xung quanh đó.
* Chức năng công bằng.
Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá được phân phối cho những người có nhiều tiền mua nhất. Như vậy ngay cả khi một cơ chế thị trường đang hoạt động có hiệu quả thì nó cũng có thể dẫn tới sự bất bình đẳng lớn. DO vậy biện pháp thu thuế và chi tiêu của chính phủ sẽ ảnh hưởng tới việc phân phối trong nền kinh tế. Biện pháp thu thuế sẽ lấy đi một số hàng hoá dịch vụ của một nhóm người thu hẹp khả năng mua sắm của họ, việc chi tiêu các khoản thuế sẽ tăng thêm việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của nhóm dân cư khác.
* Chức năng ổn định.
Ngoài chức năng hiệu quả và công bằng chính phủ còn có chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì còn có chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì sự ổn định kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ và điều chỉnh sản lượng việc làm và giá cả.
1.2.2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu.
Mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là đạt được sự ổn định trong ngắn hạn, tăng trưởng nhanh trong dài hạn và phân phối của cải một cách công bằng.
- Sự ổn định kinh tế: Là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn.
- Tăng trưởng kinh tế: Đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn có liên quan đến việc tăng trưởng kinh tế.
- Công bằng trong phân phối: vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể như sau:
* Mục tiêu sản lượng.
- Đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng.
- Tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc.
* Mục tiêu việc làm:
- Tạo được nhiều việc làm tốt.
- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và duy trì ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
* Mục tiêu ổn định giá cả.
- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do.
* Mục tiêu kinh tế đối ngoại.
- Ổn định tỷ giá hối đoái.
- Cân bằng cán cân thanh toán.
* Phân phối công bằng.
Trong nền kinh tế thị trường tất yếu có sự phân hoá giàu nghèo. Để đảm bảo công bằng thì phải thực hiện phân phối lại, khi phân phối lại làm giảm động lực cạnh tranh -> phải làm thế nào để đạt được công bằng mà vẫn kích thích phát triển sản xuất.
Chú ý: Khi nghiên cứu những mục tiêu trên chúng ta cần chú ý.
- Những mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt ở mức toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán cân bằng và tỷ giá hối đoái là không đổi.
Trong thực tế, các chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch thực tế so với trạng thái lý tưởng.
- Trong một thời điểm, không thể đạt được tất cả các mục tiêu kinh tế vĩ mô vì giữa các cặp mục tiêu kinh tế vĩ mô, có những cặp mục tiêu bổ sung cho nhau, nhưng cũng có những cặp mục tiêu mâu thuẫn nhau như sản lượng và phân phối công bằng, việc làm và giá cả, sản lượng và giá cả, tức là đạt được mục tiêu này thì không đạt được mục tiêu kia, nên các nhà hoạch định chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi phải chấp nhận một sự hy sinh nào đó trong một thời kỳ ngắn.
- Về mặt dài hạn: Thứ tự ưu tiên của các mục tiêu trên cũng khác nhau. Ở các nước đang phát triển mục tiêu ưu tiên là sản lượng và việc làm nên.
1.3. Trình bày một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng và vai trò của việc xác định các chỉ tiêu đó trong phân tích kinh tế vĩ mô.
1.3.1. Một số chỉ tiêu đo lường sản lượng quan trọng.
Ở đây ta chỉ xem xét về tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vì nó là thước đo của một nền kinh tế.
* Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
GNP là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong 1 thời kỳ (1 năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình.
GNP đánh giá kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định đó chính là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh. Chính phủ mua sắm và sử dụng trong một thời gian đã cho. Những hàng hoá và dịch vụ đó là:
+ Các hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng của các hộ gia đình.
+ Các thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh.
+ Nhà mới xây dựng.
+ Hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm.
+ Sự chênh lệch giữa hàng xuất khẩu và nhập khẩu.
GNP có cặp khái niệm GNP thực tế và GNP danh nghĩa.
GNP danh nghĩa (GNPn): Đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả ở một thời kỳ lấy làm gốc.
Cầu nối giữa GNPn và GNPr là chỉ số lạm phát (D).
Hay
GNPr: Phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế.
GNPn: Phân tích mối quan hệ tài chính, ngân hàng.
* Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
- GDP là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trong một thời kỳ nhất định (một năm).
GDP là kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế xảy ra bên trong lãnh thổ đất nước. Những hoạt động này có thể do Công ty doanh nghiệp của công dân nước đó hay nước ngoài.
Nhưng DGP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài.
Ta có mối liên hệ giữa GDP và GNP như sau:
GNP = GDP + Thu nhập Nhưng DGP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài.
Ta có mối liên hệ giữa GDP và GNP như sau:
GNP = GDP + Thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài.
Thu nhập ròng tài sản từ nước ngoài = (Khoản thu - khoản chi) từ nước ngoài.
* Khoản thu từ nước ngoài: Do đầu tư ra nước ngoài bao gồm:
- Thu tiền công lao động (do xuất khẩu lao động).
- Thu từ lãi cổ phần (do xuất khẩu vốn).
- Từ lợi nhuận (do đặt cơ sở sản xuất ở nước ngoài).
* Khoản chi trả cho nước ngoài do nước ngoài đầu tư vào bao gồm:
- Chi trả tiền công lao động.
- Trả lãi cổ phần.
- Trả lợi nhuận cho những Công ty ở nước ngoài đặt cơ sở sản xuất ở trong nước.
1.3.2. Vai trò của GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô.
GNP hay GDP là những thước đo tốt nhất về thành tựu kinh tế của một đất nước.
GNP hay GDP thường được sử dụng để phân tích những biến động về sản lượng của một đất nước trong thời gian khác nhau. Trường hợp này ta tính tốc độ tăng trưởng của GNP hay GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động của giá cả.
GNP và GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi về mức sống của dân cư.
Lúc này ta tính chỉ tiêu GNP và GDP bình quân đầu người.
GDP bình quân đầu người =
GDP
Dân số
GNP bình quân đầu người =
GNP
Dân số
Mức sống của dân cư một nước phụ thuồc vào số lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà họ sản xuất ra và quy mô dân số của nước đó sự thay đổi về GNP hay GDP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Nói cách khác, mức sống dân cư của một nước phụ thuộc vào đất nước đó giải quyết vấn đề dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào.
Sự khác nhau giữa GNP bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người.
- GNP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra và tính bình quân cho một đầu người.
1.4. Trình bày các vấn đề liên quan đến thất nghiệp phân tích các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp.
1.4.1. Các vấn đề liên quan đến thất nghiệp .
Để có cơ sở xác định được thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp cần biết được một vài khái niệm sau:
- Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong hiến pháp.
- Người có việc làm là những người đang làm cho cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội...
- Người thất nghiệp là những người đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm.
* Tỷ lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp là % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động .
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia.
* Các loại thất nghiệp.
- Theo loại hình thất nghiệp.
+ Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ)
+ Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi - nghề)
+ Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ (thành thị, nông thôn).
+ Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc
+ Thất nghiệp chia theo ngành nghề (ngành kinh tế, ngành hàng, nghề nghiệp).
- Theo lý do thất nghiệp.
+ Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khó khăn trong kinh doanh.
+ Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác).
+ Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
- Theo nguồn gốc thất nghiệp.
+ Thất nghiệp tạm thời.
+ Thất nghiệp cơ cấu
+ Thất nghiệp do thiếu cầu
+ Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường.
* Một số nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên.
- Khoảng thời gian thất nghiệp: Nếu mỗi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc thì trong mỗi thời kỳ nào đó số lượng người thất nghiệp trung bình tăng lên. Thời gian chờ đợi nói trên gọi là "Khoảng thời gian thất nghiệp", và nó phụ thuộc vào:
+ Cách thức tổ chức thị trường, lao động.
+ Cấu tạo nhân khẩu của người thất nghiệp (Tuổi đời, tuổi nghề, ngành nghề).
+ Cơ cấu các loại việc làm và khả năng có sẵn việc.
- Tần số thất nghiệp: Là tần số trung bình 1 người lao động bị thất nghiệp trong một thời kỳ nhất định (ví dụ: trong 1 năm bị thất nghiệp 2 lần). Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào.
+ Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp.
+ Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động.
Học thấp tỷ lệ tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số thất nghiệp ở mức thấp.
1.4.2. Các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp.
Muốn giảm bớt thất nghiệp thì xã hội cần phải có thêm nhiều việc làm đa dạng hơn có mức tiền công tốt hơn, đồng thời phải đổi mới thị trường lao động để đáp ứng kịp thời nhanh chóng yêu cầu của cả doanh nghiệp và người lao động.
Ở những nước đang phát triển lực lượng lao động luôn dồi dào tuy nhiên thiếu vốn thiếu đầu tư. Vì vậy việc hỗ trợ của Nhà nước hoặc các tổ chức kinh tế qua các dự án việc làm là rất cần thiết.
Bên cạnh việc đầu tư vào cơ sở vật chất còn phải tăng cường các chương trình dạy nghề và tổ chức lại thị trường lao động.
Thất nghiệp đồng nghĩa với tình trạng giảm mức sống và tăng sức ép về mặt tâm lý. Các chính sách mở rộng tài chính và tiền tệ sẽ làm giảm thất nghiệp, phục hồi kinh tế.
1.5. Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu sản lượng và mục tiêu việc làm.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp theo quy luật OKUN như sau: Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi sản lượng thực tế của một năm cao hơn sản lượng tiềm năng của năm đó 2,5% thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1% so với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Các nghiên cứu cho thấy giữa tăng trưởng, tổng sản phẩm và thất nghiệp có mối quan hệ cố hữu với nhau. Tăng trưởng nhanh, thất nghiệp giảm và ngược lại. Đó là về lao động được sử dụng vào quá trình sản xuất càng nhiều sản lượng càng tăng nhanh.
Theo OKUN ta gọi:
DU: là tỷ lệ thất nghiệp giảm đi.
a*: là tốc độ tăng thêm của sản lượng tiềm năng.
a: là tốc độ tăng thêm của sản lượng thực tế.
Thì ta có:
- Khi a > a* một lượng 2,5% thì DU = -1%.
Vậy khi a>a* một lượng (a-a*) % thì thất nghiệp thực tế giảm đi một lượng là: DU = (a-a*)/2,5.
Vì vậy việc đề ra mục tiêu và thực hiện mục tiêu về sản lượng sẽ liên quan đến mục tiêu việc làm. Khi đạt mục tiêu sản lượng ta xem đến việc đội ngũ lao động ở đó là như thế nào, có nghĩa là: có bao nhiêu người, trình độ lao động lành nghề ra sao, hay điều kiện làm việc họ có thể làm tăng ca, thêm giờ hay không. Hoặc khi ta có một lực lượng lao động là cho trước thì ta sẽ có thể đặt ra được mục tiêu sản lượng là bao nhiêu để không gây ra tình trạng công nhân lao động không có việc để làm.
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU SẢN LƯỢNG VÀ VIỆC LÀM CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2005 - 2008
2.1. Nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam để đưa ra lý do phải thực hiện mục tiêu sản lượng và việc làm trong thời kỳ 2005 - 2008.
Đất nước ta xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa từ nghèo nàn, vì phải gánh chịu hậu quả của 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ để lại. Nền kinh tế của Việt Nam sau hoà bình (1975) bị tụt hậu so với thế giới hàng chục năm. Sau hơn 30 năm khắc phục hậu quả chiến tranh kinh tế Việt Nam đã từng bước phát triển, đã có những bước tiến vượt bậc.
Việc mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là việc làm đúng đắn của chính phủ. Sự phát triển rộng khắp của các vùng kinh tế trọng điểm ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam đã phần nào giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động với sự chuyên môn hoá và hiện đại hoá cao. Sau bao nỗ lực, cố gắng Việt Nam đã được trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới voà tháng 1 năm 2007 là: điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển theo nền kinh tế thị trường.
Tốc độ tăng GDP của Việt Nam từ 2001 - 2004 tăng từ 6,79% - 7,69% được đánh giá là ở mức tăng trưởng cao. Nhờ vậy đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam còn kém nhưng nó đang dần được cải thiện. Kinh tế giữa các vùng miền phần nào giảm bớt được sự chênh lệch. Nhà nước đã có sự quan tâm và đầu tư đến cùng sâu, miền núi, hải đảo. Trong công nghiệp xuất hiện nhiều khu công nghiệp, còn trong nông nghiệp xuất hiện nhiều cùng chuyên canh nuôi trồng và đã cho hiệu quả và năng suất cao. Các ngành du lịch và dịch vụ đã có sự đầu tư để phát huy tiềm năng.
Đất nước ta tuy đã được hoà bình nhưng bên cạnh đó vẫn còn những thế lực thù địch luôn nhòm ngó. Tuy nhiên Đảng, Nhà nư