Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, điều kiện để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Nếu không có vốn thì không thể nói tới bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Khi đã có vốn rồi thì nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất.
70 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn sản xuất kinh doanh và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, điều kiện để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Nếu không có vốn thì không thể nói tới bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Khi đã có vốn rồi thì nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất.
Việc quản lý và sử dụng vốn để sản xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình trên thương trường và có thể đứng vững trong cơ chế mới.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là khi nước ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các doanh nghiệp nhà nước cùng tồn tại với các loại hình doanh nghiệp khác, có quyền tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, tự tổ chức đảm bảo đủ vốn, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Nhiều doanh nghiệp đã thích nghi với tình hình mới rất nhanh, đã phát huy được tính chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tăng lên rõ rệt do đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không ít các doanh nghiệp còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng vốn. Nhiều doanh nghiệp không thể tái sản xuất, vốn sản xuất bị mất dần đi sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Thực tế này do nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do công tác quản lý, sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp. Vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, không ít các doanh nghiệp đã gặp khó khăn trong việc huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn. Do đó vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả ngày càng cao để doanh nghiệp đứng vững hơn trên thương trường, từ đó mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động, đặc biệt lợi nhuận thu được ngày càng cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm, với thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty và hiệu quả của các hoạt động này, em quyết định chọn đề tài “ Vốn sản xuất kinh doanh và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm”. Cho chuyên đề thực tập của mình với mục đích để thực hành những kiến thức đã học và qua đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng trình độ lý luận và thực tế còn nhiều hạn chế nên vấn đề nghiên cứu của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong Công ty cùng toàn thể các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Nội dung đề tài được chia làm ba phần:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng về sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Bao Bì Đức Lâm.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH.
I. VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm đặc điểm vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1.1 Khái niệm vốn kinh doanh:
Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cân phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết và có ý nghĩa quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì trước hết chúng ta phải có tiền. Song có tiền, thậm chí có những khoản tiền rất lớn cũng không phải là vốn. Tiền được gọi là vốn khi nó thoả mãn các điều kiện sau:
Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
Hai là: Tiền phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một hạn độ nào đó mới làm cho nó đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác khắp nơi, không được "thu gom" lại thành một khoản lớn thì không tiến hành được việc gì. Vì thế một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn.
Ba là: Khi có đủ lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời trong đó: điều kiện 1 và 2 được coi là điều kiện ràng buộc để tiền trở thành vốn; điều kiện 3 được coi là đặc trưng cơ bản của vốn- nếu tiền không vận động thì đó là đồng tiền “chết”, còn nếu vận động không vì sinh lời thì cũng không phải là vốn.
Cách vận động và phương thức vận động của vốn do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Trên thực tế có 3 phương thức vận động của vốn.
T-T’: Là phương thức vận động của vốn trong các tổ chức chu chuyển trung gian và các hoạt động đầu tư cổ phiêú, trái phiếu.
T-H-T’: Là phương thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ.
T-H-SX-H’-T’: Là phương thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp sản xuất.
Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu phương thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp sản xuất. Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Sự vận động liên tục không ngừng của vốn tạo ra qúa trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, trong chu trình vận động ấy tiền ứng ra đầu tư (T) rồi trở về điểm xuất phát của nó với giá trị lớn hơn (T’), đó cũng chính là nguyên lý đầu tư, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn. Từ những phân tích trên đây, ta có thể đi đến định nghĩa tổng quát về vốn:
“ Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời”.
1.2 Đặc điểm vốn kinh doanh:
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp có quyền sử dụng đồng vốn một cách linh hoạt nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để quản lý tốt và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhà quản lý cần nhận thức rõ những đặc trưng cơ bản của vốn:
Một là: Vốn phải được đại diện bằng 1 lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác: Vốn chính là hàng hoá được biểu hiện dưới dạng nhà xưởng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chất xám...
Hai là: Vốn phải được vận động sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Tiền là dạng tiềm năng của vốn trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện dưới những hình thái khác nhau: Tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không cần dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử dụng, tiền, vàng bỏ vào dự trữ hoặc các khoản nợ khế đọng khó đòi...chỉ là những đồng vốn ''chết''. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn cũng không được bảo đảm, chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng.
Ba là: Vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định: Mỗi đồng tiền vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ, bởi lẽ những đồng vốn vô chủ gây ra sự chi tiêu lãng phí kém hiệu quả. Khi xác định được chủ sở hữu thì đồng vốn mới được sử dụng tiết kiệm có hiệu quả
Bốn là: Vốn phải được quan niệm là một loại: “Hàng hoá đặc biệt”: Những người có vốn có thể đưa vốn vào thị trường, những người cần tới vốn, tới thị trường vay, nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn của người chủ sở hữu hay quyền sở hữu của đồng vốn không di chuyển nhưng quyền sử dụng vốn được di chuyển qua sự vay nợ; người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất thoả thuận với người cho vay.
Năm là: Vốn không chỉ được biểu hiện ở dạng hữu hình mà còn biểu hiện ở dạng vô hình. Vì thế, các loại tài sản này cần phải được lượng hoá bằng tiền, qui về giá trị. Trong điều kiện cơ chế thị trường phải xem xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh hưởng của sự biến động giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền ở những thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, phạm trù vốn cần phải được nhận thức một cách phù hợp. Việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn những đặc trưng của vốn trong điều kiện nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường sẽ góp phần giúp doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
2. Phân loại vốn kinh doanh ở doanh nghiệp.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi loại hình doanh nghiệp, có thể lựa chọn những căn cứ phân loại vốn khác nhau. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, để phân tích hiệu qủa sử dụng vốn thì cần căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển vốn trong qúa trình sản xuất kinh doanh. Dựa vào tiêu chí này, toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động.
2.1. Vốn cố định.
* Khái niệm: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
* Đặc điểm:
Là số vốn đầu ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Vì vậy trước hết ta phải xem xét đặc điểm trong cách phân loại tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, chi phí mua bằng phát minh sáng chế.
Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn, song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Chỉ khi nào tài sản cố định bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì nó mới được thay thế đổi mới. Tài sản cố định là một phạm trù kinh tế, tài sản cố định phải là sản phẩm của lao động xã hội (tức là có giá trị) và tham gia vào quá trình sản xuất với chức năng của tư liệu lao động (giá trị sử dụng). Điều này cho thấy tài sản cố định phải có đầy đủ các thuộc tính của một hàng hoá (giá trị và giá trị sử dụng) như mọi hàng hoá thông thường khác. Do đó những lực lượng tự nhiên như thác nước, dòng sông, đất đai...có trường hợp làm tư liệu lao động của xã hội chế tạo máy chỉ được coi là sản phẩm đang lưu thông; nhà xưởng, thiết bị máy móc đang xây dựng và lắp đặt chỉ được coi là đối tượng lao động. Tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi thoả mãn 2 điều kiện sau.
- Có thời gian sử dụng trên 1 năm
- Có giá trị ³ 5 triệu đồng
Có thể nói, quá trình vận động của tài sản cố định được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật, tài sản cố định gồm những tư liệu lao động chủ yếu tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, bị hao mòn, biểu hiện ở giá trị sử dụng ngày càng giảm bớt nhưng vẫn giữ nguyên hình thái hiện vật cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị, vốn để mua sắm tài sản cố định phải ứng toàn bộ 1 lần khi bắt đầu tham gia vào quá trình sản xuất, số vốn đó chỉ được hoàn lại từng phần nhỏ do được rút ra từ lưu thông sau khi kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất. Như vậy, trong quá trình sản xuất, giá trị tài sản cố định luôn luôn tồn tại dưới 3 hình thái: hình thái ban đầu gắn liền với hiện vật tài sản cố định, một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm sản xuất ra và một bộ phận chuyển hoá thành tiền khi sản phẩm hàng hoá bán được. Bộ phận ban đầu ngày càng giảm bớt, bộ phận tiền tệ ngày càng tăng lên cho đến khi bộ phận này vừa đúng bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì cũng là lúc kết thúc một vòng chu chuyển của vốn cố định. Vì thế mà quá trình tái sản xuất ra hình thái vật chất ban đần của tài sản cố định không tiến hành đồng thời với tái sản xuất ra giá trị của nó và không nhất thiết thực hiện sau một chu kỳ sản xuất mà có thể thực hiện sau một thời gian dài, khi nó kết thúc thời gian sử dụng và bị hư hỏng hoàn toàn. Từ đó cho thấy việc quản lý tài sản cố định rất phức tạp và khó khăn, việc tái sản xuất tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
2.2. Vốn lưu động
Khái niệm: Vốn lưu động trong doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Đặc điểm: Vốn lưu động của doanh nghiệp có những đặc điêm cơ bản sau:
Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại được thay đổi hình thái thể hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển.
Vậy vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Đáp ứng đầy đủ vốn lưu động cho quá trình sản xuất cũng như quá trình lưu thông giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn được vòng luân chuyển của vốn. Việc đáp ứng không kịp thời và hợp lý nhu cầu vốn lưu động sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, việc xác định nhu cầu vốn lưu động quá cao sẽ gây ra ứ đọng vốn, vật tư, hàng hoá, vốn lưu động chậm luân chuyển. Do đó vấn đề tổ chức, bảo toàn và sử dụng vốn lưu động hợp lý có vai trò rất quan trọng, doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả thì càng sản xuất được nhiều sản phẩm, tiết kiệm được vốn lưu động và mang lại hiệu quả cao, giúp doanh nghiệp đạt đuợc mục đích kinh doanh của mình.
Nguồn hình thành vốn kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi nguồn vốn đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Để lựa chọn và tổ chức hình thức huy động vốn thích hợp, có hiệu quả, cần phải có sự phân loại nguồn vốn. Việc phân loại nguồn vốn được thực hiện, dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Dưới đây là 3 cách phân loại chủ yếu:
3.1. Căn cứ vào quan hệ sở hữu
3.1.1.Nguồn vốn chủ sở hữu:
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ sung, vốn do nhà nước tài trợ(nếu có).
Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngượi lại tỷ trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu tài chính càng nhỏ thì độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng nhỏ.
Vốn chủ sở hữu
tại một thời điểm = Tổng nguồn vốn - Nợ phải trả
Nợ phải trả
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền huy động từ phát hành trái phiếu, các khoản nợ, phải trả cho Nhà nước, cho người bán, cho công nhân viên. Nguồn này có tính chất tạm thời và thường xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay.
- Căn cứ vào phạm vi huy động có thể chia thành 2 loại nguồn vốn sau:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp, nó được hình thành từ tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển của doanh nghiệp. Huy động và sử dụng nguồn vốn bên trong tốt tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn. Tuy nhiên không vì thế mà xem nhẹ công tác quản lý sử dụng nguồn vốn này, vì trong hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn này sử dụng kém hiệu quả nhất.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có thể từ vốn liên doanh, liên kết, vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các khoản nợ khác.
Việc vay vốn bên ngoài giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc... sử dụng nguồn vốn bên ngoài có ưu điểm: do phải trả chi phí cho việc vay vốn nên doanh nghiệp thường sử dụng số tiền vay đó sao cho có hiệu quả nhất để bù đắp được những chi phí vốn thu và được lợi cho doanh nghiệp. Hơn nữa khi doanh nghiệp đạt mức lợi nhuận cao thì không phải phân chia phần lợi nhuận cao đó.
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia thành: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và có thể sử dụg trong một thời gian dài gồm: Vốn chủ sở hữu, khoản vay trung và dài hạn. Nguồn vốn này được dùng để mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tư liệu lao động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể dụng mang tính chất tạm thời trong một thời gian ngắn (dưới 1 năm) như: Nguồn vốn chiếm dụng hợp lý vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Phân loại nguồn vốn kinh doanh thành nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời, giúp cho người quản lý xem xét, huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô, số lượng cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao.
Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định tài chính của người quản lý trên cơ sở điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Làm thế nào để lựa chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu? Đó là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào sự lựa chọn cơ cấu tài chính. Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn sản xuất kinh doanh chúng ta rút ra những ý nghĩa quan trọng.
Một là: việc phân loại vốn giúp cho người quản lý nắm bắt được cơ cấu vốn trong doanh nghiệp và xác định chính xác nên bổ sung vốn từ nguồn nào là thích hợp.
Hai là: Phân loại nguồn vốn giúp cho công tác lập kế hoạch huy động vốn được chính xác sát với thực tế của doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động với chất lượng cao nh