Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi đây là một giải pháp chiến lược nhằm giải phóng và khai thác tối đa các tiềm năng hiện có để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý đồng thời luôn khẳng định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đại hội IX khẳng định thêm “các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” và “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước để doanh nghiệp Nhà nước cạnh tranh bình đẳng trên thị trường ”. Nói đến các doanh nghiệp trong bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào thì vốn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Mọi nguồn lực của doanh nghiệp chung quy lại đều do nguồn lực tài chính quyết định luôn phải có những bước đi vững chắc trong mọi hoạt động phải tạo được sự tăng trưởng hiện tại và những tiền đề quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tìm cách huy động và sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.
Xuất phát từ đó, em chọn đề tài “Vốn và vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả cua các doanh nghiệp khi chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta”
Tiểu luận bố cục gồm 3 phần lớn:
A. Phần mở đầu
B. Nội dung
Phần I: Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng về vốn và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Giải pháp để tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
C. Kết luận
23 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn và vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả cua các doanh nghiệp khi chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - Lời nói đầu
Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi đây là một giải pháp chiến lược nhằm giải phóng và khai thác tối đa các tiềm năng hiện có để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý đồng thời luôn khẳng định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đại hội IX khẳng định thêm “các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” và “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước để doanh nghiệp Nhà nước cạnh tranh bình đẳng trên thị trường ”. Nói đến các doanh nghiệp trong bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào thì vốn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Mọi nguồn lực của doanh nghiệp chung quy lại đều do nguồn lực tài chính quyết định luôn phải có những bước đi vững chắc trong mọi hoạt động phải tạo được sự tăng trưởng hiện tại và những tiền đề quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tìm cách huy động và sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.
Xuất phát từ đó, em chọn đề tài “Vốn và vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả cua các doanh nghiệp khi chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta”
Tiểu luận bố cục gồm 3 phần lớn:
Phần mở đầu
Nội dung
Phần I: Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng về vốn và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Giải pháp để tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Kết luận
B - Nội dung
Phần I: Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn trong nước trong doanh nghiệp ở nước ta.
Sự thành đạt về kinh tế xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào kinh tế xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường tức doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp lớn nhỏ có khả năng thích ứng với những thay đổi của thị trường, vùng với sự chủ động trong kinh doanh chúng có thể thích nghi nhanh chóng với những đòi hỏi về giá cả sản phẩm, dịch vụ của người tiêu dùng.
I. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành là phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn đầu tiền sử (C.Mác gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là người điều khiển các công việc của mình (của gia đình mình) vừa là người trực tiếp làm ra sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong thời kỳ hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để đi làm việc đều muốn thử sức mình trong ngành nghề kinh doanh. Với số vốn ít ỏi trong tay với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, từ sản xuất kinh doanh.
Trong số đó có một số người gặp may và đặc biệt là nhờ vào tài năng, biết chớp kịp thời có sáng kiến cải tiến kinh tế, khéo léo điều hành và tổ chức sắp xếp công việc, cần cù, chịu khó, tiết kiệm, đã thành đạt, ngày càng giầu lên, tích luỹ được nhiều tài sản, vốn, thường xuyên mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh ngược lại, một số bộ phận lớn nười sản xuất hàng hoá nhỏ khác hoặc do không gặp may trong sản xuất kinh doanh và đời sống, hoặc do năng lực hạn chế, không biết chớp thời cơ, không có sáng kiến cải tiến kỹ thuật không biết quản lý tính toán.. đã dẫn đến thua lỗ, phá sản, đi làm thuê cho kẻ khác.
Nhu cầu về vốn ngày càng tăng, nhằm nâng cao công suất và hiệu suất sản xuất kinh doanh đã thôi thúc các doanh nghiệp hoặc là góp vốn chung thành liên doanh Xí nghiệp, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập Công ty cổ phần. Bằng các hình thức thuê liên kết ngang dọc hoặc hốn hợp, nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn hình thành và phát triển.
II. Huy động vốn và vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp.
1. Khái niệm về vốn.
Vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất và giá trị. Về phương diện vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, nhiên liệu, thành phẩm hàng tồn kho.. vốn là nhân tố đầu vào đồng thời bản thân nó là kết quả đầu ra của kinh tế. Vốn luôn chuyển động và chuyển hoá hình thái vật chất, cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Vốn là tiền tệ là “trung gian” cần thiết để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Trong cơ chế thị trường, ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất, còn có loại vốn tồn tại dưới dạng tài sản có giá trị vô hình bằng phát minh, sáng chế, kinh nghiệm tay nghề, bí quyết. Xét trên diện rộng, người ta có thể coi tài nguyên lao động cũng là vốn.
Chính vì thế vốn là một nhân tố quan trọng không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp. Bởi vì phải có vốn thì doanh nghiệp mới đảm bảo được sự vận hành thường xuyên và có khả năng tăng trưởng trong tương lai. Nói một cách khác vốn chính là một tất yếu khách quan của doanh nghiệp . Như vậy chúng ta có thể hiểu môt cách khái quát như sau:
Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện ở nhiều hình thái và tài sản vô hình, cũng như mọi kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp, trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ công nhân viên chức. Sự bao tồn và tăng trưởng của vốn là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp.
2. Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tăng tưởng và phát triển đều phải có vốn. Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp. Trong cuộc tranh đua phát triển kinh tế như hiện nay, vấn đề vốn trong các doanh nghiệp càng được đặt ra như một vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Vốn là cơ sở là tiền đề để cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu đã đề ra.
Nếu thiếu vốn đầu tư, dẫn tới năng suất lao động thấp thu nhập thấp. Điều này có ý nghĩa vòng quanh của vốn lại càng ngắn lại và quy mô tồn tại của doanh nghiệp lại càng hẹp.
Bởi vậy, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì cần có số lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu thị trường và có khả năng chiếm lĩnh được thị phần trên thị trường.
Vốn là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm cho số lao động thừa tạo thêm công ăn, việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động.
Trong một doanh nghiệp, vốn được sử dụng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu trả lương cho công nhân. Đồng thời, vốn có thể giúp cho những doanh nghiệp này có thể thay thế cho tài sản cũ đã bị hư hỏng.
Ngoài ra, vốn còn được sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực có và tạo ra tiềm lực lớn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ.
3. Các nguồn hình thành vốn trong nước.
Nói đến nguồn vốn của doanh nghiệp có nghĩa là nói đến các nguồn tài trợ dài hạn trong doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có các hình thức tài trợ khác nhau. Các công cụ tạo vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phong phú, đa dạng hơn so với các doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bởi vì trong nền kinh tế thị trường có một loại thị trường đặc biệt là thị trường vốn. Thị trường vốn bao gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia cung cấp là sử dụng vốn.
+ Nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Đây là nguồn vốn Nhà nước duyệt chi cho phát triển kinh tế. Nó là chênh lệch giữa tổng thu so với tổng chi của ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước được hình thành chủ yếu qua các khoản sau:
Khoản thu về thuế
Khoản lệ phéi có tính chất thuế
Các khoản thu từ khai thác là sử dụng tài nguyên
Thu từ hợp tác lao động
Thu từ bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
Các khoản viện trợ không hoàn lại
+ Vốn tự bổ sung của doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn quan trọng cho phát triển doanh nghiệp. Nguồn vốn này được hình thành từ 2 nguồn vốn.
Trích khấu hao cơ bản
Phần lợi nhuận còn lại bổ sung vào vốn kinh doanh.
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng, các tổ chức tín dụng
Gồm 2 loại:
- Vốn dài hạn và trung hạn: Là các khoản vay mà doanh nghiệp sử dụng đầu tư dài hạn cho tài sản cố định ưu điểm chủ yếu của hình thức vay này là thời gian sử dụng dài với lao động ưu đãi.
- Vốn ngắn hạn: Chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp. Sử dụng vốn này, doanh nghiệp phải chịu sức ép lớn về thời gian cũng như lãi suất.
Vốn vay Ngân hàng là một nguồn vốn quan trong mà các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn nhanh chóng phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh để huy động vốn nhanh chóng phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đạt được một tỷ suất lợi nhuận cao thứ đây là hình thức tín dụng có lợi nhất so với hình thức gọi vốn cổ phần....
+ Vốn trong dân:
Đó là sự tiết kiệm từ thu nhập trong nước của đại bộ phận dân cư, tiết kiệm của người đi lao động.
ở nước ta trình độ phát triển kinh tế còn thấp thể hiện ở tổng sản phẩm trong nước, bình quân đầu người và cả tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm thấp so với tốc độ phát triển dân số cao. Điều này làm cho tiết kiệm từ thu nhập của dân cũng bị hạn chế.
III. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn là biện pháp cơ bản để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn.
Để đánh giá tình hình huy động cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
a. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn trong nước:
Hệ số huy động vốn trong nước =
Vốn huy động trong nước
Tổng số vốn
b. Các chsỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung:
Sức sản xuất của vốn =
Giá trị sản lượng
Lượng vốn sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh: một đồng vốn bỏ vào sản xuất - kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng giá trị sản phẩm, doanh thu. Hiệu suất sử dụng vốn kỳ lần thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
- Suất hao phí vốn.
Suất hao phí vốn =
Lượng vốn sử dụng trong kỳ
Giá trị sản lượng
Chỉ tiêu này phản ánh: một đồng giá trị sản lượng hoặc doanh thu cần các sản xuất kinh doanh bao nhiêu đồng vốn.
Kỳ luân chuyển bình quân của
vốn lưu động định mức kỳ =
360 người
Số vòng luân chuyển vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng vốn sản xuất của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Đồng thời, để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hoá số vốn sử dụng hoặc tối đa hoá kết quả sản xuất trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có.
2. Tỷ suất lợi nhuận.
- Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc xem xét mức biến động của tổng số lợi nhuận, còn phải đánh giá bằng số tương đối (tỷ suất lợi nhuận) thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sản xuất sử dụng để sinh ra số lợi nhuận đó.
3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tối tập thể hàng loạt các biện pháp tổ chức. Kinh tế kỹ thuật và tài chính. Việc tổ chức đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển.
- Tỷ lệ doanh lợi trên vốn sản xuất.
Tỷ lệ doanh lợi so với vốn sản xuất =
Tổng số lợi nhuận
x 100
Tổng số vốn sản xuất
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn sản xuất trong kỳ.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Giá trị sản lượng
Tổng vốn cố định sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh: một đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng giá trị sản lượng.
Suất hao phí vốn cố định =
Tổng vốn cố định trong kỳ
Giá trị sản lượng
+ Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng giá trị sản lượng cần bỏ vào sản xuất kinh doanh bao nhiêu đồng vốn cố định.
- Tỷ lệ doanh lợi trên vốn:
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định =
Tổng số lợi nhuận
Tổng số vốn cố định sử dụng trong kỳ
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Giá trị sản lượng
Vốn lưu động bình quân
Tỷ lệ danh lợi trên đồng vốn lưu động =
Tổng số lợi nhuận
Vốn lưu động bình quân
- Tối đa luân chuyển của vốn lưu động:
Số vòng luân chuyển vốn lưu động định mức kỳ =
Doanh thu bán hàng kế hoạch
Tổng số vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch
Phần II. Thực trạng về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
I. Những thuận lợi và khó khăn về vốn để phát triển doanh nghiệp.
1. Thuận lợi.
Những doanh nghiệp nhỏ thường khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do tính chất nhỏ lẻ, dể phân tán đi sâu vào các ngõ ngạch bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều cho nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cứ đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ cần một số vốn hạn hẹp, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khở sự doanh nghiệp vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng mà nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế để thích ứng hơn nữa vốn đầu tư ít, hiệu quả cao, thu hút nhanh do đó doanh nghiệp mà nhỏ tạo nên sự hấp dẫn trong đầu tư của nhiều cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Mặt khác đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Với nền kinh tế thị trường như hiện nay thì nguồn vốn không phải ít có rất nhiều nguồn: Ví dụ Ngân hàng, các tổ chức tín dụng, vốn trong dân, nguồn vốn ngân sách Nhà nước.. chính vì thế mà các doanh nghiệp muốn phát triển mở rộng thì phải biết điều chỉnh và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó.
2. Khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ riêng ở Việt Nam vốn vấn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Do thành lập doanh nghiệp tương đối dễ dàng nên số doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhiều, lại tập trung vào những ngành những sản phẩm không đòi ỏi vốn quá lớn cho nên cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, lợi nhuận ngày càng mỏng đi và khó tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không có đủ tài sản, bất động sản để là vật thế chấp vay vốn ở các Ngân hàng. Đặc biệt là nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư đối mới máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng lại càng nan giải hơn. doanh nghiện Nhà nước thường phải trả giá cao hơn về nguyên liệu hoặc nhận giá thấp hơn về sản phẩm, cuối cùng vì họ bị phụ thuộc tính chất vào các nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc thiết bị mà lẻ ra nhờ nó học có thể giảm chi phí cho sản phẩm của họ hoặc cải tiến được chất lượng sản phẩm chỉ bởi vì không đủ tiền mua thiết bị đó.
Mặt khác, lãi suất cho vay hiện nay ở các Ngân hàng vẫn coi đang ở mức cao so với tỷ suất lợi nhuận của mọi doanh nghiệp. Thời gian vay quá ngắn (thường chỉ vài ba tháng – một năm) so với chu kỳ sản xuất kinh doanh (nếu tính đầu tư mới mở rộng sản xuất kinh doanh thì phải 3-5 năm)/
Vì thế, điều nghịch lý đã diễn ra: các doanh nghiệp cần vốn nhưng không dám vay tiền Ngân hàng, ngược lại các Ngân hàng thừa vốn dù phần lớn là vốn ngắn hạn nhưng khó tìm được khách hàng vay chân chính. Sự hỗ trợ từ Ngân hàng đối với các doanh nghiệp còn yếu.
II. Vấn đề vốn trong quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam.
Trước năm 1986, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thực sự được sự quan tâm khuyến khích hỗ trợ.
Tạo vốn tích luỹ.
Thực tiễn chứng minh Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu, nếu không nói là quan trọng nhất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân nhiều hay ít tuỳ thuộc vào năng lực của cơ chế huy động, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hay không. Muốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước.
Nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên vẫn còn hạn hẹp chính vì thế mà các doanh nghiệp phải tạo vốn tích luỹ từ nhiều nguồn vốn. Bên cạnh đó, vấn đề sử dụng bảo quản và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Có nghĩa là phải lựa chọn những phương án tối ưu trong tạo nguồn tài chính, trước hết phải hạch toán kinh tế kinh doanh, phải đảm bảo tính hiệu quả cao. Vì vậy, để doanh nghiệp từng bước tăng trưởng và phát triển, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2. Vốn trong quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam.
Trước năm 1986, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thực sự được quan tâm khuyến khích hỗ trợ, do vậy các doanh nghiệp này phải tổ chức lao động núp bóng dưới các hình thức khác nhau như tổ hợp hộ gia đình, hợp tác xã, Xí nghiệp công tư hợp doanh. Chỉ nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh thì khu vực kinh tế tư nhân mới thực sự yên tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, cũng từ đó hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân, cá thể hộ gia đình... ra đời và phát triển góp phần đáng kể vào giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Nhìn vào quá trình phát triển của các doanh nghiệp có thể thây rằng các doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) mới được phát triển mạnh từ năm 1989 đến nay, nghĩa là từ khi bắt đầu quá trình đối mới chính sách quản lý kinh tế ở Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, sự tích luỹ vốn trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong dân cư nói riêng là nhỏ bé vì vậy mà các doanh nghiệp đều khởi sự với số vốn đầu tư ít ỏi. Vào năm 1992 quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ vào khoảng 713 triệu đồng, (ở 4 thành phố lớn, quy mô vốn của các doanh nghiệp nhìn chung khá lớn, đối với doanh nghiệp tư nhân con số này ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Nam - Đà Nẳng, TPHCM vào khoảng 1.100 triệu đồng. Điều này có thể giải thích được bởi sự tích lũy vốn và tài sản ở những thành phố lớn so với địa phương khác).
Hàng năm các loại hình doanh nghiệp đã thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư, đưa nguồn vốn đó vào chu chuyển khắc phục một nghịch lý đã tồn tại trong những năm là doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi lượng vốn trong dan còn và khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Tuy lượng vốn thu hút vào doanh nghiệp không nhiều, nhưng nhờ số lượng doanh nghiệp khá lớn nên tổng lượng vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ sức hút của các doanh nghiệp ở Việt Nam ngày càng lớn mạnh dần tạo được niềm tin trong dân. Nhưng tới năm 1997 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, sức