Đề tài Xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế kỷ 21 đã và đang chứng kiến sự thay đổi và chuyển mình của nền hành chính công hiện đại với xu hướng đổi mới và thu gọn vai trò, chức năng của Nhà nước nhằm hướng đến một nền hành chính hiệu quả, vì mục tiêu phát triên kinh tế xã hội bền vững và vì con người. Trong đó, xác định việc cung ứng dịch vụ công là một chức năng quan trọng của Nhà nước, là nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.

doc21 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4741 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA & TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ ĐỀ TÀI: XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9/2010 MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 3 Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ 4 I. Một số khái niệm cơ bản 4 1.1. Dịch vụ công 4 1.2. Xã hội hóa dịch vụ công 4 1.3. Đô thị 4 1.4. Chính quyền đô thị 4 II. Các loại dịch vụ công 5 2.1. Dịch vụ hành chính công 5 2.2. Dịch vụ sự nghiệp công 5 2.3. Dịch vụ công ích 6 III. Sự cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị 6 3.1. Yêu cầu khách quan 6 3.2. Yêu cầu chủ quan 7 Chương II THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ TRONG THỜI GIAN QUA 9 I. Dịch vụ hành chính công 9 II. Dịch vụ sự nghiệp công 11 III. Dịch vụ công ích 12 Chương III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ 15 I. Phương hướng 15 1.1 Quan điểm của Đảng 15 1.2. Định hướng 16 1.2.1. Định hướng chung 16 1.2.2. Định hướng đối với từng lĩnh vực 17 II. Các giải pháp 19 Kết luận 20 Tài liệu tham khảo 21 Lôøi noùi ñaàu Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế kỷ 21 đã và đang chứng kiến sự thay đổi và chuyển mình của nền hành chính công hiện đại với xu hướng đổi mới và thu gọn vai trò, chức năng của Nhà nước nhằm hướng đến một nền hành chính hiệu quả, vì mục tiêu phát triên kinh tế xã hội bền vững và vì con người. Trong đó, xác định việc cung ứng dịch vụ công là một chức năng quan trọng của Nhà nước, là nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước trước công dân. Trên con đường xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính trên các lĩnh vực, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định “đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng”; trong đó đổi mới vai trò, trách nhiệm của Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước trong quản lý và tổ chức cung ứng dịch vụ công gắn liền với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công là một nhiệm vụ quan trọng cần tập trung giải quyết. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ đặt ra yêu cầu: “Xây dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm. Trong lĩnh vực cần định rõ những công việc mà Nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công việc cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội đảm nhiệm”. Nhận thức được những chủ trương đó, trong thời gian qua, việc quản lý, cung ứng dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công đã có những chuyển biến tích cực và tạo được sự hưởng ứng đồng thuận từ phía xã hội và công dân, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…Tuy nhiên, do dịch vụ công và xã hội hội hóa dịch vụ công vẫn còn là khái niệm khá mới đối với Việt Nam nên việc nhận thức cũng như thực hiện còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa rõ ràng và thống nhất dẫn đến sự chậm trễ, vướng mắc trong việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công của Đảng và Nhà nước ta; gây trở ngại trong việc tiến tới xây dựng chính quyền đô thị ở các đô thị lớn trong cả nước. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ -------- I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1 Dịch vụ công: trên thế giới hiện nay có nhiều cách tiếp cận đối với dịch vụ công, mỗi cách tiếp cận đều có ưu và nhược điểm riêng. Vì thế, không có định nghĩa chung nhất nào về dịch vụ công. Trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam cùng với hướng tiếp cận về bản chất, chức năng và vai trò của nhà nước, có thể đưa ra khái niệm về dịch vụ công như sau “dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội do nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận”. 1.2 Xã hội hóa dịch vụ công: là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể xã hội và tăng cường vai trò của nhà nước đối với dịch vụ công 1.3 Đô thị: là các điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hơp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong huyện. 1.4 Chính quyền đô thị: được hiểu là chính quyền được cấu tạo chỉ có một cấp (cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND chỉ có ở cấp thành phố). Trách nhiệm quản lý được tập trung vào cấp thành phố, cấp còn lại chỉ là cánh tay nối dài, chứ không phải một cấp quyền lực khác. Chính quyền đô thị là chính quyền có bộ máy quản lý tinh giản tối đa số lượng công chức, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Chính quyền đô thị được tự chủ về các vấn đề tài chính, đầu tư, nhân sự và tự quyết định tất cả những vấn đề lớn. Chính quyền đô thị có bộ máy hành chính được tổ chức tinh giản về mọi mặt. Bộ máy đó quy tụ nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, được tuyển chọn dựa trên các tiêu chí chủ đạo là tài năng và đạo đức. Đó là một chính quyền ưu tú, có đội ngũ CBCC tận tâm và tuyệt đối trong sạch, họ gây được ảnh hưởng tốt đến lối sống của toàn xã hội. Một nội dung rất quan trọng của chính quyền đô thị là vấn đề phân quyền để làm rõ trách nhiệm cá nhân. Đó là việc tập trung quyền lực cho người đứng đầu, phân rõ giới hạn nhiệm vụ của mỗi vị trí trong bộ máy quản lý, hạn chế tối đa bộ phận trung gian. Người đứng đầu chính quyền đô thị có quyền quyết định một cách nhanh chóng, tức thì về nhiều vấn đề quan trọng của đô thị. Người đứng đầu thành phố do người dân trực tiếp bầu (thường gọi là Thị trưởng). Thị trưởng được trao quyền lực rộng lớn nhất, chịu trách nhiệm cao nhất trước dân về mọi mặt của đô thị. Vai trò tổng tư lệnh cho phép thị trưởng điều hành tất cả các ban ngành thuộc bộ máy quản lý của thành phố. Kể cả trong mọi tình huống cấp bách, thị trưởng luôn có toàn quyền điều phối. Nhiều ý kiến cho rằng chính quyền đô thị là mô hình mà ở đó “Nhà nước được thu nhỏ lại, tư nhân phình ra”. Nhà nước chỉ làm chức năng quản lý, đề ra chính sách hợp lý, còn huy động người dân tham gia phát triển TP; xây dựng trong người dân thói quen ứng xử đô thị, tuân thủ luật pháp triệt để... II. CÁC LOẠI DỊCH VỤ CÔNG Tùy vào mức độ khác nhau về tính chất công cộng, vai trò trách nhiệm của nhà nước và loại chủ thể thực hiện cung ứng dịch vụ công; có thể phân dịch vụ công thành các loại cơ bản sau đây: 2.1 Dịch vụ hành chính công là những loại dịch vụ phục vụ chung cho mọi người dân như cấp các giấy phép, giấy khai sinh, chứng minh thư, xác nhận hộ tịch, hộ khẩu,…Đây là một loại dịch vụ gắn với công việc quản lý nhà nước; là loại hoạt động quản lý mang tính phục vụ, đặt quyền lợi người dân lên trên, nhà nước phải vì dân mà phục vụ. Dịch vụ hành chính công do các cơ quan hành chính nhà nước đảm nhiệm. Trong một số trường hợp, các tổ chức cá nhân có thể được thực hiện việc cung ứng này nhưng phải có sự ủy quyền của các cơ quan hành chính nhà nước và phải tuân theo những quy định của pháp luật. Như vậy, dịch vụ hành chính công là một dịch vụ cơ bản, không thể thiếu của dịch vụ công, hơn nữa lại thể hiện trực tiếp nhất vai trò phục vụ của nhà nước trước công dân. 2.2 Dịch vụ sự nghiệp công là loại dịch vụ cung cấp các hàng hóa dịch vụ về giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa tinh thần,…do các tổ chức sự nghiệp cung ứng, không thu tiến hoặc có thu tiền một phần nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Là một dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người và do các tổ chức chuyên ngành có chuyên môn sâu cung cấp như bệnh viện, trường học,…Các hàng hóa cung cấp chủ yếu là hàng hóa phi hiện vật. Nếu dịch vụ hành chính chỉ có thể thu lệ phí mang tính chất ước lệ, thể hiện quyền uy của nhà nước hoặc đối với một số dịch vụ có chi phí phát sinh cần phải thu phú để bù đắp thì đối với dịch vụ sự nghiệp do nhà nước cung cấp có thể chia thành các nhóm bao gồm dịch vụ tối thiểu cung cấp cho đại đa số người dân và nhóm có thu tiền nhưng không hoàn toàn theo giá cả thị trường. Dịch vụ sự nghiệp thường tập trung vào các lĩnh vực như giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao, việc làm,… 2.3. Dịch vụ công ích là hoạt động cung cấp các hàng hóa dịch vụ có tính chất kinh tế đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho sinh hoạt người dân, nó gắn liền với việc cung ứng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản. Dịch vụ công ích có vai trò quan trọng đối với xã hội. Chất lượng của dịch vụ công ích là một trong những yếu tố thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi quốc gia. Đây là loại hình dịch vụ công chịu ảnh hưởng ít nhiều về vai trò điều tiết của nhà nước, đồng thời là loại dịch vụ công có khả năng thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế nhất. Các hàng hóa cung cấp là các hàng hóa vật chất thường do doanh nghiệp thực hiện, nguồn tài chính được huy động từ sự đóng góp trực tiếp của người dân hoặc từ các tổ chức kinh doanh nhưng chất lượng, sự giá cả thì chịu sự điều tiết của Nhà nước để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và tạo điều kiện cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng. Các loại dịch vụ công ích được các chính phủ quan tâm thực hiện gồm vệ sinh môi trường, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, cấp điện sinh hoạt và chiếu sáng công cộng, bưu chính, chăm sóc công viên, cây xanh,…. III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ 3.1 Yêu cầu khách quan: - Do yêu cầu phát triển chung của đời sống kinh tế xã hội: trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ kỹ thuật, nền kinh tế thị trường và xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội đã buộc Nhà nước ở các quốc gia trên thế giới một mặt nâng cao trách nhiệm quản lý xã hội, một mặt phải thu hút sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào công tác quản lý nhà nước. Đây là một động lực thúc đẩy tiến trình cải cảch hành chính nhằm tiến tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, hướng tới hiệu quả phục vụ, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội và công dân. Xã hội hóa dịch vụ công không chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển mà hiện nay đó là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới. - Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường: một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường là hướng sự chú ý tới khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, trong khi đó khu vực tư nhân là khu vực linh hoạt hơn khu vực nhà nước trong cung ứng dịch vụ về thời gian, giá cả, phương thức thanh toán,… cũng như phương thức quản lý như tuyển dụng, trả lương, huy động các nguồn tài chính,…Vì vậy, sự mở rộng tham gia của các chủ thể khác ngoài nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu cao nhất của khách hàng. - Sự thay đổi tương quan giữa khu vực công với khu vực tư trong việc cung ứng dịch vụ công cũng cần có sự thay đổi về hình thức cung cấp các dịch vụ công. Sự thay đổi này thường do: + Sự phát triển ngày càng cao của khoa học và công nghệ dẫn đến khu vực tư có khả năng tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về nhà nước như công nghệ thông tin, phương tiện tính toán, đo lường, phương tiện kiểm tra, giám sát,…. + Mức sống của người dân ngày càng cao đòi hỏi sự phục vụ ngày càng cao cả về chất lượng lẫn khối lượng dịch vụ. + Sự kém hiệu quả của khu vực công so với với khu vực tư như khu vực công chỉ chú ý đến việc cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của người cung ứng chú không phải người thụ hưởng dịch vụ; chỉ chú ý đầu vào chứ không chú ý đến hiệu quả; cung cấp cho khách hàng cái mà họ có chứ không phải cái mà họ cần và có thể lựa chọn; thiếu sự gắn kết giữa người cung ứng dịch vụ và người dân,…. 3.2 Yêu cầu chủ quan: - Tiết kiệm ngân sách: xã hội, đặc biệt xã hội đô thị ngày càng phát triển dẫn đến việc ngày càng có nhiều vấn đề phức tạp phát sinh, trong khi ngân sách nhà nước thì có hạn; Mặt khác, đời sống người dân đô thị ngày càng cao, ngày càng có nhiều người có đủ điều kiện cung ứng những dịch vụ thuộc về Nhà nước. Chính vì thế cần phải có sự huy động sự tham gia của cá nhân và tổ chức ngoài nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công ở đô thị. - Năng lực bộ máy cung cấp dịch vụ: người dân ở đô thị với sự phát triển ngày càng cao về nhận thức và nhu cầu; trong khi khả năng cung cấp dịch vụ của bộ máy nhà nước thì có hạn cả về chất lượng và khối lượng dịch vụ cung ứng. Nhằm cung ứng cho xã hội các dịch vụ có chất lượng nhưng giá cả hợp lý, yêu cầu phải có sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội. - Yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp của khu vực công: trong tình hình hiện nay, việc nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ công đã tạo ra tình trạng độc quyền trong một số ngành và lĩnh vực. Hệ quả là các ngành và lĩnh vực kém phát triển do không có tính cạnh tranh, tính chuyên nghiệp của đội ngũ thực hiện cung ứng dịch vụ kém. Xã hội hóa là hình thức để nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ của khu vực công. - Bảo đảm tính công khai và minh bạch: ngoài việc nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ công, việc mở rộng sự tham gia của người dân trong việc cung ứng dịch vụ công còn tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện chức năng này của nhà nước, đảm bảo tính công khai minh bạch; hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch như thực tế hiện nay. Từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, việc xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị là một tất yếu khách quan trong quá trình cải cách hành chính nhằm hướng đến xây dựng chính quyền đô thị tại các đô thị lớn hiện nay. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆC XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ TRONG THỜI GIAN QUA ---------- Trong những năm qua, cùng với những chủ trương và định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta và những nỗ lực của các cấp chính quyền địa phương trong việc trong việc xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị đã mang lại một số kết quả đáng ghi nhận như sau: I. DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG Tính đến nay, việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công đã được thực hiện trong lĩnh vực công chứng, chứng thực; đăng kiểm xe cơ giới; dịch vụ bổ trợ tư pháp. Tuy nhiên, dưới góc độ một bài tiểu luận, xin chỉ nêu thực trạng về việc xã hội hóa trong lĩnh vực công chứng. Sự ra đời của Luật công chứng (1/7/2007) đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ hành chính công trong lĩnh vực công chứng, chứng thực. Ngay sau khi Luật Công chứng đi vào thực tiễn cuộc sống, 36/63 tỉnh, thành đã cho phép thành lập các Văn phòng công chứng xã hội hoá (hay còn gọi là công chứng tư hoặc văn phòng công chứng ngoài ngân sách). Tính đến tháng 4/2009, theo số liệu của Bộ Tư pháp, cả nước có 450 công chứng viên nhà nước hoạt động trong 130 Phòng Công chứng của Nhà nước và hơn 100 Công chứng viên không phải là công chức nhà nước hoạt động ở gần 60 Văn phòng công chứng xã hội hoá được thành lập ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thanh Hoá, Ninh Bình. Nhìn chung, sự ra đời của các Văn phòng công chứng xã hội hoá bước đầu hoạt động có hiệu quả, góp phần giảm tải cho các Phòng Công chứng nhà nước và nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu công chứng của xã hội công dân hiện đại. Đặc biệt, điều mà người dân ở các đô thị hài lòng nhất về văn phòng ngoài ngân sách là thái độ phục vụ, tiếp đón niềm nở và phong cách làm việc chuyên nghiệp của đội ngũ công chứng viên ở đây, cái mà họ không nhận được từ văn phòng công chứng nhà nước. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của văn phòng công chức nhà nước. Từ 1/7/2007, xã, phường được giao thêm nhiệm vụ chứng thực những giấy tờ, chứng chỉ, văn bản có bản gốc đi kèm. Thời điểm đầu, trung bình mỗi ngày tại đây sao y bản chính khoảng 100 văn bản. Sau khi việc xã hội hóa công chứng ra đời, số lượng này chỉ còn khoảng một nửa. Hay như thực tế tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1 trên phố Bà Triệu, Hà Nội vào ngày thứ ba đầu tuần nhưng cũng chỉ có hơn 10 khách hàng, khác với tình trạng chen lấn, xô đẩy, quá tải trước đây. Qua đó có thể thấy sự ra đời của văn phòng công chứng xã hội hóa phần nào đã giảm bớt sự quá tải ở các văn phòng công chứng nhà nước, giúp người dân có nhiều lựa chọn hơn trong việc thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình, gia tăng tính cạnh tranh trong lĩnh vực công chứng, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ người dân; đồng thời khẳng định đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, trước những mặt tích cực mà công chứng xã hội hóa mang lại thì vẫn còn tồn tại những nhược điểm, bất cập mà trong thời gian tới nếu không có sự điều chỉnh kịp thời của các cơ quan chức năng thì những văn phòng công chứng tư sẽ trở thành nỗi lo của xã hội và sẽ đi ngược với chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể: - Một số văn phòng công chứng chưa thực hiện đúng hoặc chưa thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Công chứng (như niêm yết, đăng bố cáo thành lập, mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp…) và pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê. Vẫn còn tình trạng một số văn bản công chứng chưa bảo đảm chặt chẽ; hồ sơ công chứng vẫn còn thiếu một số giấy tờ có liên quan. - Văn phòng công chứng tư vì lý do lợi nhuận đã bất chấp các quy định của pháp luật, ví dụ việc công chứng các giấy tờ làm giả theo yêu cầu của người công chứng hay việc công chứng ngoài trụ sở. Theo quy định của pháp luật, việc thực hiện công chứng ngoài trụ sở chỉ được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt nhưng vì lợi nhuận các văn phòng công chứng tư đã thực hiện việc phục vụ khách hàng mọi lúc, mọi nơi dẫn đến việc mất an toàn pháp lý vì các văn phòng công chứng thường cử các nhân viên (chứ không phải công chứng viên) đi lấy chữ ký người yêu cầu công chứng. Do đó, sẽ khó bảo đảm toàn vẹn các yêu cầu như xác định chính xác nhân thân của người yêu cầu công chứng; năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, cũng như tính chính xác của giấy tờ gốc chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản mang ra giao dịch... - Chưa có mạng thông tin liên kết giữa văn phòng công chứng công và văn phòng công chứng tư, vì thế các văn phòng công chứng không thể xác định tài sản đã giao dịch chưa. Nếu kẻ xấu dùng giấy tờ giả đã công chứng bán tài sản gì đó thì người mua bị thiệt. - Các công chứng viên không phải công chức nhà nước còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức về pháp luật nên dẫn đến nhiều trường hợp công chứng sai quy định. Đặc biệt trong điều kiện hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều chồng chéo, bất cập như hiện nay, nếu không có kinh nghiệm sẽ rất khó thực hiện theo yêu cầu, quy định pháp luật. II. DỊCH VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG Có thể nói, trong ba loại hình dịch vụ công, thì các loại hình dịch vụ sự nghiệp công được thực hiện xã hội hóa mạnh nhất trong lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa thể thao, việc làm và an sinh xã hội, nghệ thuật, khoa học công nghệ…Thực hiện Nghị quyết số 90-NQ/CP của Chính phủ ngày 21/8/1997 về thực hiện chủ trương xã hội hội hóa về hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73- NĐ/CP ngày 19/8/1999 về quy định chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục. Tính đến nay, số lượng đơn vị, tổ chức cung ứng các dịch vụ trong ba lĩnh vực trên đã không ngừng tăng lên. Trong lĩnh vực giáo dục, ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài. Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-2008, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6%, trong đó tỷ lệ học sinh phổ thông