Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đó và đang được Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta hết sức quan tâm. Để thực hiện CNH, HĐH việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhân lực có chất lượng cao luôn là sự quan tâm của cả nước.
Bước sang thế kỷ XXI với sự phát triển của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức nền kinh tế thế giới dang có nhiều chuyển biến. Sự hợp tác đa dạng, đa phương trong nền kinh tế thị trường đang đũi hỏi cỏc nước phải cải cách giáo dục theo hướng hiện đại. Phát triển qui mô, nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ đặt ra đối với các nước đang phát triển mà ngay cả các nước phát triển cũng đang tiến hành cải cách và hiện đại hóa giáo dục theo hướng hợp tác liên thông bằng cấp trong khu vực và thế giới. Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế đó tạo điều kiện đổi mới giáo dục và xó hội đang yêu cầu giáo dục nước nhà đẩy nhanh tốc độ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xó hội để nước ta sớm kịp các nước trong khu vực và quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, giáo dục nước ta đó đạt được những kết quả đáng kể. Đến nay chúng ta đó cú một hệ thống cỏc cơ sở giáo dục, đào tạo đa dạng các loại hỡnh nhà trường và hỡnh thức giỏo dục. Qui mô giáo dục phát triển lớn từ mầm non đến đại học. So với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, giáo dục trong thời kỳ đổi mới đó đổi thay nhiều mặt. Có được thắng lợi này là do chúng ta đã tích cực thực hiện chương trình xã hội hoá trong công tác giáo dục. Đây chính là lí do vì sao mà nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề xã hội hoá giáo dục ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
13 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xã hội hoá giáo dục ở Việt nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội hoá giáo dục ở Việt nam hiện nay
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đó và đang được Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta hết sức quan tâm. Để thực hiện CNH, HĐH việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhân lực có chất lượng cao luôn là sự quan tâm của cả nước.
Bước sang thế kỷ XXI với sự phát triển của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức nền kinh tế thế giới dang có nhiều chuyển biến. Sự hợp tác đa dạng, đa phương trong nền kinh tế thị trường đang đũi hỏi cỏc nước phải cải cách giáo dục theo hướng hiện đại. Phát triển qui mô, nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ đặt ra đối với các nước đang phát triển mà ngay cả các nước phát triển cũng đang tiến hành cải cách và hiện đại hóa giáo dục theo hướng hợp tác liên thông bằng cấp trong khu vực và thế giới. Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế đó tạo điều kiện đổi mới giáo dục và xó hội đang yêu cầu giáo dục nước nhà đẩy nhanh tốc độ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xó hội để nước ta sớm kịp các nước trong khu vực và quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, giáo dục nước ta đó đạt được những kết quả đáng kể. Đến nay chúng ta đó cú một hệ thống cỏc cơ sở giáo dục, đào tạo đa dạng các loại hỡnh nhà trường và hỡnh thức giỏo dục. Qui mô giáo dục phát triển lớn từ mầm non đến đại học. So với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, giáo dục trong thời kỳ đổi mới đó đổi thay nhiều mặt. Có được thắng lợi này là do chúng ta đã tích cực thực hiện chương trình xã hội hoá trong công tác giáo dục. Đây chính là lí do vì sao mà nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề xã hội hoá giáo dục ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
2. Cơ sở lý luận
* Khái niệm “Xã hội hoá giáo dục”
Trong văn kiện Hội nghị lần 2 của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII nêu rõ: Xã hội hoá trong công tác giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước.
* Nội dung khái quát của Xã hội hoá giáo dục
- Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức, làm cho xã hội ta trở thành xã hội học tập
- Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, nâng cao ý thức trách nhiệm của cáctổ chức cá nhân đối với sự nghiệp giáo dục tạo ra môI trường giáo dụclành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục ngoài xã hội.
- Khai thác có hiệu quả các nguồn lực của xã hội cho giáo dục; tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngoài để phát triển giáo dục.
- Đa dạng hoá các loại hình thức hoạt động giáo dục, khuyến khích các loại hình thức hoạt động giáo dục, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các trường ngoài công lập trên cơ sở đảm bảo vai trò nòng cốt của các trường công lập
- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục.
*Mục tiêu của xã hội hoá giáo dục.
- Tạo ra sự thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý, vận hành và tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng dân chủ hoá, đa dạng hoá, phù hợp với cơ chế của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
- Phát huy cao độ nội lực tiềm tàng trong xã hội; khơI dậy tính chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân tạo ra những nguồn lực phong phú đa dạng từ trong và ngoài nước để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển nhanh, mạnh và vững chắc, phục vụ kịp thời những yêu cầu to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, từng bước không ngừng nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục đào tạo của mỗi người dân; hình thành trong mọi tầng lớp nhân dân ý thức học tập thường xuyên, học tập suốt đời, tiến tới xây dựng một xã hội học tập.
PHẦN NỘI DUNG
I. HIỆN TRẠNG VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
1. Những thành tựu đã đạt được
Một là: Qua hơn 10 năm thực hiện xã hội hóa Giáo dục, dù còn nhiều ý kiến khác nhau và rồi để lịch sử phán xét, nhưng một điều mà không ai có thể phủ định được là chúng ta đã đạt được một số kết quả nhất định trên 2 khía cạnh số lượng và chất lượng bao gồm về đa dạng hóa các loại hình đào tạo, về đa dạng hóa qui mô đào tạo, về đa dạng hóa hệ thống trường lớp từ nhà trẻ, mẫu giáo đến phổ thong, đại học, trên đại học trong phạm vi cả nước, về việc thường xuyên tiến hành đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp và điều kiện đào tạo phù hợp hơn với xu thế hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu tổng hợp sau:
Bảng 1: Về qui mô xã hội hóa hệ mẫu giáo
1996
1998
1999
2000
2001
2002
Số lớp (Nghìn lớp)
66,9
79,8
83,0
84,5
87,1
86,7
Số giáo viên (Nghìn người)
75
92,9
94,1
98,1
103,3
103,1
Số học sinh (Nghìn người)
1931,6
2257,7
2248,2
2199,5
2212,0
2120,5
Số học sinh bq một lớp
28,9
28,3
27,2
26,1
25,4
24,5
Số HS bình quân 1 giáo viên-HS
25,7
24,3
24,0
22,5
21,4
20,6
(Nguồn niên giám thống kê năm 2002)
Bảng 2: Chỉ số phát triển về giáo dục phổ thông
1996
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số trường
104,7
104,2
104,3
201,6
102,8
102,1
Trường tiểu học
106,5
105,5
103,9
101,9
102,5
100,3
Trường trung học cơ sở
111,9
98,7
114,4
103,6
104,4
104,5
Trường trung học phổ thông
104,7
127,7
107,6
114,4
114,3
110,7
Tổng số lớp học
106,6
103,7
103,7
101,3
101,7
101,6
Tiểu học
103,7
101,7
101,2
98,5
99,3
98,4
Trung học cơ sở
114,6
106,6
106,8
104,6
103,5
106,4
Trung học phổ thông
114,1
116,3
118,5
115,9
114,8
108,0
Tổng số học sinh
107,1
103,8
102,5
101,7
100,5
100,7
Tiểu học
102,0
100,3
98,5
98,1
97,1
95,6
Trung học cơ sở
117,9
107,5
106,0
103,3
103,0
106,6
Trung học phổ thông
120,9
119,6
119,6
118,4
111,0
107,4
(Nguồn niên giám thống kê năm 2002)
Cho đến nay hầu hết những người trong độ tuổi đi học (trừ một số ở vùng sâu, vùng xa, miền núi giao thông khó khăn) đã học hết bậc tiểu học
Bảng 3: Chỉ số phát triển hệ cao đẳng, đại học ( năm trước=100-%)
1995
1996
1997
1999
2000
Trường học
100
114,6
11,8
106,5
113,0
Giáo viên
105,1
102,6
108,3
103,8
103,0
Sinh viên
146,5
130,1
103,0
107,7
108,0
Hệ dài hạn
126,4
79,6
132,5
82,6
96,9
Hệ chuyên tu
213,6
79,6
132,5
82,6
96,9
Hệ tại chức
185,6
118,7
109,4
95,4
112,1
Hệ khác
102,9
44,1
21,7
104,7
Sinh viên tốt nghiệp
158,5
94,4
139,5
109,9
131,9
(Nguồn niên giám thống kê năm 2002)
Hai là: về ngân sách giành cho Giáo dục- Đào tạo
Những năm qua, Nhà nước đã từng bước tăng ngân sách cho giáo dục đào tạo, vì vậy cơ sở vật chất, thiết bị trường học từ nhà trẻ đến Đại học đã biến đổi rõ rệt, tác động tích cực đến chất lượng đào tạo. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu chi ngân sách hàng năm cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước
Bảng 4: Chi ngân sách Nhà nước cho Giáo dục và Đào tao
Đơn vị tính %
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Giáo dục và đào tạo
11,17
11,86
10,77
13,5
15,3
16
Nguồn niên giám thống kê năm 2002
Ba là: Theo số liệu hiện nay, Việt Nam có đông đảo đội ngũ cán bộ có trình độ cao: Thạc sĩ khoảng: 15000 người, Giáo sư: Trên 1500, phó giáo sư: gần 5000; tiến sĩ: 13000; tiến sĩ khoa học: 591 và 2 triệu công nhân kỹ thuật… Từ năm 1990 trở lại đây, tỉ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ, thạc sĩ tăng nhanh nhiều gấp 4-5 lần so với những năm trước. Đây là điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục -đào tạo
Bốn là: Nội dung chương trình giáo dục đào tạo, từng bước phù hợp với chương trình đào tạo của thế giới, phần nào kết hợp tốt mối quan hệ giữa sản xuất, kinh doanh, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Thành quả nghiên cứu khoa học của thầy giáo, sinh viên đã góp phần vào phát triển khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Năm là: Những năm qua, đã thực hiện từng bước đa dạng hóa loại trường đào tạo, hình thức sở hữu, loại hình đào tạo, “ Truyền thống” và “ Không truyền thống” để tạo ra một hệ thống Giáo dục và Đào tạo mở rộng, thuận tiện cả về mặt thời gian và không gian, bước đầu hình thành một cơ chế mềm dẻo về liên thông, chuyển cấp, chuyển ngành, tích lũy tín chỉ.. Đa dạng hóa về tính chất, chuơng trình, chất lượng, phương thức quản lý và cả về nguồn kinh phí đào tạo theo xu hướng đẩy nhanh hội nhập quốc tế.
2. Những tồn tại, hạn chế
Tuy nhiên, nếu xem xét theo yêu cầu của nền kinh tế, xã hội và bối cảnh quốc tế thì giáo dục và Đào tạo Việt Nam cũng đang bộc lộ các tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất: Những năm qua, về tổng thể cơ cấu trong giáo dục đào tạo chưa thực sự tạo ra các nhân tố đồng bộ từ mẫu giáo đến đại học và sau đại học để hướng tới phục vụ thật sự tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đẩy nhanh hội nhập. Điều này thể hiện trên từng mặt sau:
Về chất lượng: Giáo dục và Đào tạo chưa đạt như mong muốn, chưa phù hợp yêu cầu hội nhập, chưa đồng bộ từ mẫu giáo đến đại học, có sự chênh lệch giữa các cấp, các vùng, thậm chí giữa các trường. Điều này được chứng minh rõ qua kết quả thi tuyển sinh đại học những năm qua mà quốc hội cũng như ngành và báo chí nêu ra.
Về cơ cấu bậc học: Sinh viên đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ quá cao( 20% trên tổng số sinh viên), còn sinh viên trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều bất cập là cho đến nay thì, trong tổng số sinh viên, thì sinh viên kinh tế và luật chiếm tỷ lệ quá cao. Thí dụ: năm 1999 đến nay, có đến 40%-65% sinh viên hệ tại chức và đại học văn bằng 2, dang theo học nhóm ngành kinh tế và luật, trong khi đó các ngành phục vụ cho CNH, HĐH như khoa học cơ bản, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin….. chiếm tỷ lệ nhỏ.
Cơ cấu và tỷ lệ đào tạo ngành nghề theo trình độ chuyên môn rất bất hợp lý, tỷ lệ công nhân kỹ thuật có bằng rất thấp (thấp hơn tỷ lệ đào tạo cao đẳng, đại học) trong cơ cấu đào tạo có xu hướng giảm sút. Trong khi đó nhu cầu xã hội rất cao, rất đa dạng, phong phú. Cơ cấu đào tạo theo bậc học cũng có sự thay đổi căn bản như sau : c¬ cÊu ®µo t¹o theo bËc ®¹i häc cao ®¼ng chiÕm tû lÖ cao nhÊt sau ®ã dÕn trung häc chuyªn nghiÖp råi cuèi cïng lµ c«ng nh©n kÜ thuËt.
Chi tiêu cho bậc học dạy nghề trong thời gian qua hầu như không thay đổi trong cơ cấu chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ( khoảng 17%). Chính cơ cấu đào tạo theo trình độ chuyên môn, thèo cơ cấu đào tạo ngành nghề còn chưa gắn kết với đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế quốc dân là nguyên nhân dẫn tới tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động có đào tạo. Ở những thành phố lớn, lực lượng lao động được đào tạo chiếm tỷ lệ cao thì cũng là nơi có tỷ lệ thất nghiệp lớn như Hà Nội là 10,3%, thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%; Đồng Nai là 6,64%; Đà Nẵng:6,64%; Hải phòng:8,11%; Nam Định: 9,36%; Quảng Ninh: 9,33%
Về phân bố trên lãnh thổ: Số sinh viên trên 1 vạn dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long và Tây Bắc chỉ khoảng 18 người; trong khi đó ở thành phố Hồ Chí Minh là 430 sinh viên và Hà Nội là 1. 270 sinh viên (bình quân cả nước khoảng 110 sinh viên/1 vạn dân)
Về sử dụng có đến 94,4% cán bộ có trình độ đại học làm việc tại các cơ quan Trung ương. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu năng của nền kinh tế. Thí dụ năm 1990, Philipin đã có đến 250 sinh viên trên 1 vạn dân nhưng lại yếu kém về giáo dục và dạy nghề. Còn ở Singapore con số này chỉ là 210 sinh viên nhưng lại có tỷ lệ cao về sinh viên kỹ thuật và cán sự chuyên nghiệp.
Thứ 2: Quy mô đào tạo. Theo nhân hàng thế giới (1995)j, tỉ lệ trung bình số sinh viên Đại học trong độ tuổi (18-22 tuổi) năm 1990 ở các nước có thu nhập cao là 51%, ở các nước có thu nhập thấp trung bình là 21% và các nước có thu nhập thấp là 6%. Mặt khác, theo cách phân chia của học giả Martin Trow, nếu tỉ lệ sin viên trong độ tuổi còn thấp hơn 10% thì nền Giáo Dục và Đào tạo vẫn còn tính tinh hoa, trên 15% thì chuyển sang tính đại chúng và vượt qua 50% thì bước sang tính phổ cập. Kinh nghiệm của thế giới trong nhiều thập niên qua cũng cho thấy việc chuyển sang một nền Giáo dục và Đào tạo đại chúng là bước đi tất yếu để quá đooj từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp và việc phổ cập Giáo dục và Đào tạo cũng là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Ở nước ta, số sinh viên trong độ tuổi hiện nay khoảng 6%, nghĩa là mới đạt được mức trung bình của các nước có thu nhập thấp ở năm 1990. Theo dự kiến, tỉ lệ này sẽ đạt 15% năm 2010 và 25% năm 2020, nghĩa là tốc độ tăng bình quân khoảng 10%/năm ( tốc độ trong 10 năm qua ở Việt Nam khoảng 20%; ở trong khu vực thời kỳ 1970-1980 là 20% ở Hàn Quốc và Malaxia, thời kỳ 1980-1990 là 14,8% ở Hàn Quốc, 13,3% ở Malaixia và 12,4% ở Singapore, ở Trung Quốc là gần 50% trong năm qua)
Thứ 3: Giáo dục- Đào tạo đang có nguy cơ tạo ra những con người thụ động, học thuộc bài chạy theo các môn học, ngành học có khả năng dễ xin việc, dễ kiếm tiền, làm cho cơ cấu các bậc học chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước, trong khi đó sự hiểu biết về xã hội, lịch sử, chính trị còn thấp, chất lượng giáo dục vẫn còn thấp. Điều này thể hiện thông qua trình độ chuyên môn kỹ thuật trong mối tương quan với dân số được thể hiện như sau:
Bảng 5: Dân số 18 tuổi trở lên phân theo trình độ chuyên môn
Chỉ tiêu
Số lượng (người)
So với tổng số (%)
Tổng số
Trong đó:
Đào tạo nghề
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng
Đại học
Thạc sĩ
Tiến sĩ
Tiến sĩ khoa học
Không được đào tạo
54.473,8
1.239,8
1.526,2
379,2
936,9
17,2
8,8
2,5
50.336,4
100
2,28
2,8
0,7
1,72
0,03
0,02
0,005
92,4
(Nguồn niên giám thống kê năm 2000)
Thứ tư: Hầu hết sinh viên Việt Nam tốt nghiệp không đủ trình độ hội nhập trong khi làm việc trong các công ty liên doanh ở Việt Nam, họ đều phải đào tạo lại về ngoại ngữ, chuyên môn, kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ thuật lao động công nghiệp.
Người có bằng cấp, học vị khá nhiều, nhưng lại thiếu trầm trọng những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp có năng lực, biết điều hành và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý các hoạt động xã hội. Hiện tượng “thừa thầy,thiếu thợ”, “ Số thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh được đào tạo những năm gần đây nhiều gấp đôi công nhân bậc 7…nếu chỉ tính những sinh viên học nghề theo đúng nghĩa, số lượng hiện nay còn lại chưa bằng một phần năm so với ngay đất nước thống nhất…”
Thứ năm: hiện nay, người lao động nông nghiệp có tới từ 5 đến 6 tháng “ nông nhàn”. Mà “nông nhàn” nghĩa là thất nghiệp và bán thất nghiệp nguyên nhân là có đến 92% lao động nông nghiệp của ta chưa được đào tạo nghề và trong trong đó phụ nữ chiếm đa số.
Chẳng hạn qua khảo sát ở tỉnh Đồng Nai, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 100.000 người lao động, thì chỉ có 50.000 người đã được qua đào tạo, mà phần nhiều là đào tạo ngắn hạn. Độ tuổi từ 15-29 là lực lượng lao động trẻ, năng động, sang tạo, sung sức, có khả năng tích lũy tri thức cao, Nhưng trong thời gian ưua ở Việt Nam trình trạng thôi học trong độ tuổi này lại chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 6: Tình hình đi học ở tuổi 15-29 tuổi.
Tổng số
Đang đi học
Đã thôi học
Chưa bao giờ đi học
100
19,7
75,3
5,0
100
53,85
42,27
3,87
100
26,19
68,47
5,33
100
4,63
89,17
5,39
(Nguồn niên giám thống kê năm 2000)
Từ số liệu trên ta có thể kết luận: Một bộ phận lớn thanh thiếu niên đã nhanh chóng thỏa mãn với trình độ học vấn mà mình đạt được, không tiếp tục phấn đấu để có ở trình độ cao hơn nữa. Đây sẽ là lực cản cho tiến trình xây dựng kinh tế tri thức ở nước ta.
Sáu là trong cơ cấu chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước, chi cho giáo dục – đào tạo tăng từ 12% trogn chi thường xuyên năm 1990, trong những năm gần đây tăng từ 13-15% (2000). Tuy nhiên, tới hơn 70% tổng quĩ này được chi trả để dung cho lương, mặc dầu mức lương trong ngành chưa phải là cao. Vì vậy đầu tư cho giáo dục mới chỉ đạt được từ 10-15 USD một người mỗi năm, trong khi chỉ tiêu này ở Philipin là 21 USD, Thái Lan: 56 USD, Malaixia:162 USD, Hàn Quốc: 225,3 USD.Qua khảo sát ở tỉnh Đồng Nai từ khi bắt đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài đến 31/12/1997 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 65.000 người lao động, thì chỉ có 25.000 người đã được qua đào tạo, mà phần lớn là đào tạo ngắn hạn. Hơn nữa, trong khi số người lao động chưa có việc làm ở Đồng Nai còn rất đông mà các doanh nghiệp trên vẫn buộc phải tuyển dụng lao động từ các nơi khác đến (chiếm khoảng8%) do tỉnh đào tạo không kịp đáp ứng nhu cầu.
3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên
Những năm qua chúng ta hình thành số lượng các trường bán công dân lập và các trung tâm luyện thi, trung tâm ngoại ngữ…quá nhanh, trong khi đó số lượng giáo viên chuẩn bị để cung ứng cho các trường tăng chậm, do đó một thầy phải đảm nhận quá nhiều sinh viên, bình quân có đến 32 sinh viên/ 1 thầy, cá biệt có trường là 100-135 sinh viên một thầy (lẽ ra chỉ trên dưới sinh viên/ 1 thầy). Còn các nước đang phát triển là 12/1, Trung Quốc là 8/1. Mười năm qua, trong khi số sinh viên trên 1 vạn dân tăng 6,1lần thì số giảng viên chỉ tăng có 1,5 lần. Điều đó làm quá tải giờ dạy, dẫn đến thầy cô ít đầu tư vào chiều sâu khoa học bài giảng.
Đầu tư vào tài chính cho một sinh viên vẫn rất thấp, trường công lập là khoảng 400 USD/năm, trường dân lập chỉ khoảng 200 USD. Điều này dẫn đến kinh phí đầu tư vào trường lớp, phương tiện giảng dạy chậm đổi mới dẫn đến giáo viên cũng như học sinh sinh viên chưa đủ phương tiện để nghiên nghiên cứu giảng dạy và học tập tốt.
Điều kiện cơ sở vất chất của nhiều trường quá yếu kém từ bàn ghế, âm thạnh, ánh sang, diện tích phòng học, sân chơi, bảng và các phương tiện giảng dạy khác. Một số trường dân lập thành lập gần 10 năm mà chưa có cơ sở vật chất của riêng mình vẫn đi thuê hoàn toàn. Chính sự yếu kém này cũng là một nguyên nhân dẫn đến cả giáo viên và học sinh sa sút tinh thần dạy và học.
Phương pháp giảng dạy lạc hậu, thầy nói, sinh viên ghi, chủ yếu về lý thuyết, giờ học bị cắt xén do học viên đến trễ, thầy bận rộn dạy nhiều nơi, khi thi học sinh phải viết đúng như thầy dạy…, chương trình đào tạo cứng nhắc,chậm đổi mới. Nhiều giáo trình chỉ ở giai đoạn dẫn nhập vào môn học hoặc đại cương. Thành ra vốn liếng kiến thức học sinh cũng đại cương theo, đó là chưa nói đến dạy chay, học chay.
Số lượng trường lớp tăng nhanh, số học sinh tăng nhanh, nên đã phát sinh 2 thái cực về thầy và cô giáo: Một là, đại đa số là tâm huyết, gắn bó nghề nghiệp, muốn truyền đạt tất cả hiểu biết của mình cho trò, chuẩn mực về phẩm chất được học viên kính trọng,. Cũng do giáo viên chưa được chuẩn bị đầy đủ kiến thức trước khi lên bục giảng, họ trước khi làm thầy cũng chỉ học đại học mở, ghi danh, cơn lốc của kinh tế thị trường họ trở thầy, nên thiếu gắn bó, đã bị đồng tiền chi phối, không trở thành tấm gương cho học sinh, đã để lại không ít dư luận xấu trong xã hội
II. CÁC GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
- Vấn đề hàng đầu cấp bách hiện nay trong xã hội hoá giáo dục và đào tạo là phải xã hội hoá chiều sâu trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo từng bước, toàn diện cho quá trình phát triển đất nước
Điều này đòi hỏi trước hết phải giảm thậm chí ngưng xã hội hoá giáo dục theo chiều rộng ở các thành phố: Hồ Chí Minh, Hà Nội mà tập trung toàn bộ học phần lớn từ 2-5 năm cho xã hội hoá chiều sâu( cơ cấu ngành nghề, chất lượng học tập, chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy,…) từ bậc giáo dục mẫu giáo đến đào tạo tiến sĩ theo trên 2 mặt thể lực bao gồm cả phẩm chất và trí lực cho phù hợp nét đạc thù của Việt Nam. Hai mặt vừa nêu phảI quyện