Ngày nay nền kinh tế Quốc dân đang phát triển mạnh, nhu cầu của con người tiêu dùng tăng, bên cạnh đó nền khoa học công nghệ cũng tăng mạnh nhằm đáp ứng được nhu cầu chung của con người, do đó các dây chuyền công nghệ mới đáp ứng được yêu cầu của việc tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động được đưa ra liên tục. Các cơ sở sản xuất luôn luôn phải theo dõi không chỉ nhu cầu của người tiêu dùng mà cả thế hệ công nghệ mới để xem xét, có thể phải thay đổi dây chuyền công nghệ như vậy mới theo kịp nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong những năm gần đây việc nuôi trồng thuỷ sản trong nước và trên thế giới thấy rằng đang có nhiều hướng phát triển nhất là trong năm 2002 lượng thuỷ sản nhập vào Mỹ tăng hơn so với năm 2000 là 12 % và Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam tính đến hết năm 2002, giá trị xuất khẩu của Việt nam vào Mỹ năm 2002 đã đạt mức 500 triệu USD vượt lên trên Nhật bản (bạn hàng lớn nhất của Việt nam từ trước tới năm 2000) với 486 triệu USD. Theo Cục Nghề cá biển Hoa Kỳ mức tăng trưởng trong nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ năm 2002 so với 2000 hơn 12 % và mức này dự báo vẫn không suy giảm trong năm 2004. Trung quốc cũng là một thị trường mới với mức nhập khẩu tăng đều với tốc độ cao và đặc biệt là nơi tiêu thụ rất nhiều chủng loại sản phẩm từ cấp thấp đến cấp cao, cùng với quan hệ Nhà nước, quan hệ thương mại tài chính Việt - Trung cũng có nhiều bước chuyển biến theo hướng tích cực. Qua đây cũng thấy rằng các thị trường chính xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vẫn có mức tăng trưởng trong nhập khẩu là một đảm bảo tương đối cho những người nuôi trồng những đối tượng xuất khẩu trong ngành thuỷ sản.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam năm 2002 đạt trên 1.760 triệu USD tăng 19 % so với năm 2000 nhưng do năm 2002 giá tôm giảm nhiều mà tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực chiếm đến 44 % tổng giá trị xuất khẩu, do đó nếu như giá tôm hồi phục như năm 2000 thì giá trị kim ngạch xuất khẩu có thể còn cao hơn nhiều, và theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thì lượng thuỷ sản tiêu thụ trên thế giới sẽ ngày càng gia tăng, theo tính toán thì lượng tôm hiện nay mới đáp ứng được 70 % nhu cầu của thế giới và theo dự báo thì giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt nam năm 2004 sẽ đạt mức 2 tỷ USD và 3 tỷ USD vào năm 2005. Do vậy dự án nuôi trồng thuỷ sản ở Tiền Hải – Thái Bình với một lượng sản phẩm nhỏ thì việc tiêu thụ không phải là vấn đề khó khăn, vì ngoài những nhà máy chế biến thuỷ sản của Thái Bình, Hải Phòng cũng có hai nhà máy chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Qua biểu đồ diễn biến tình hình sản lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 5 năm gần đây cho thấy sự gia tăng mạnh cả trong sản lượng và giá trị của hàng thuỷ sản xuất khẩu, trong 5 năm 1996 - 2000 sản lượng xuất khẩu tăng trung bình 19 %/năm và giá trị xuất khẩu tăng 23 %.(Sơ đồ 1)
Sức Ðp của thu nhập thấp và thất nghiệp trở nên trầm trọng và đang được các tổ chức ở địa phương cũng như các cơ quan chức năng trong tỉnh, huyện quan tâm giải quyết. Tuy có diện tích tiềm năng có thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhưng cũng chỉ nuôi ở mức quảng canh. Do hệ thống thuỷ lợi rất kém, người dân còn thiếu những kiến thức, kinh nghiệm trong nuôi trồng thuỷ sản, việc xây dựng ao nuôi còn tuỳ tiện, không đúng quy cách, vốn đầu tư còn hạn chế dẫn đến việc tăng năng suất thấp bình quân chỉ thu được 71kg tôm và 20 kg cua trên 1 ha năng suất này quá thấp so với tiềm năng của địa phương. Do đó việc đầu tư xây dựng dự án nuôi tôm tại xã Đông Hải huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình trở nên bức thiết hơn lúc nào hết. Xuất phát từ thực tế khó khăn trên của xã Đông Hải tôi đã quyết định lùa chọn nghiên cứu đề tài: “Xây dùng dự án phát triển nuôi tôm sú ở xã Đông Hải – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình”
76 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dùng dự án phát triển nuôi tôm sú ở xã Đông Hải – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Ngày nay nền kinh tế Quốc dân đang phát triển mạnh, nhu cầu của con người tiêu dùng tăng, bên cạnh đó nền khoa học công nghệ cũng tăng mạnh nhằm đáp ứng được nhu cầu chung của con người, do đó các dây chuyền công nghệ mới đáp ứng được yêu cầu của việc tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động được đưa ra liên tục. Các cơ sở sản xuất luôn luôn phải theo dõi không chỉ nhu cầu của người tiêu dùng mà cả thế hệ công nghệ mới để xem xét, có thể phải thay đổi dây chuyền công nghệ như vậy mới theo kịp nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong những năm gần đây việc nuôi trồng thuỷ sản trong nước và trên thế giới thấy rằng đang có nhiều hướng phát triển nhất là trong năm 2002 lượng thuỷ sản nhập vào Mỹ tăng hơn so với năm 2000 là 12 % và Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam tính đến hết năm 2002, giá trị xuất khẩu của Việt nam vào Mỹ năm 2002 đã đạt mức 500 triệu USD vượt lên trên Nhật bản (bạn hàng lớn nhất của Việt nam từ trước tới năm 2000) với 486 triệu USD. Theo Cục Nghề cá biển Hoa Kỳ mức tăng trưởng trong nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ năm 2002 so với 2000 hơn 12 % và mức này dự báo vẫn không suy giảm trong năm 2004. Trung quốc cũng là một thị trường mới với mức nhập khẩu tăng đều với tốc độ cao và đặc biệt là nơi tiêu thụ rất nhiều chủng loại sản phẩm từ cấp thấp đến cấp cao, cùng với quan hệ Nhà nước, quan hệ thương mại tài chính Việt - Trung cũng có nhiều bước chuyển biến theo hướng tích cực. Qua đây cũng thấy rằng các thị trường chính xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vẫn có mức tăng trưởng trong nhập khẩu là một đảm bảo tương đối cho những người nuôi trồng những đối tượng xuất khẩu trong ngành thuỷ sản.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam năm 2002 đạt trên 1.760 triệu USD tăng 19 % so với năm 2000 nhưng do năm 2002 giá tôm giảm nhiều mà tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực chiếm đến 44 % tổng giá trị xuất khẩu, do đó nếu như giá tôm hồi phục như năm 2000 thì giá trị kim ngạch xuất khẩu có thể còn cao hơn nhiều, và theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thì lượng thuỷ sản tiêu thụ trên thế giới sẽ ngày càng gia tăng, theo tính toán thì lượng tôm hiện nay mới đáp ứng được 70 % nhu cầu của thế giới và theo dự báo thì giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt nam năm 2004 sẽ đạt mức 2 tỷ USD và 3 tỷ USD vào năm 2005. Do vậy dự án nuôi trồng thuỷ sản ở Tiền Hải – Thái Bình với một lượng sản phẩm nhỏ thì việc tiêu thụ không phải là vấn đề khó khăn, vì ngoài những nhà máy chế biến thuỷ sản của Thái Bình, Hải Phòng cũng có hai nhà máy chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Qua biểu đồ diễn biến tình hình sản lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 5 năm gần đây cho thấy sự gia tăng mạnh cả trong sản lượng và giá trị của hàng thuỷ sản xuất khẩu, trong 5 năm 1996 - 2000 sản lượng xuất khẩu tăng trung bình 19 %/năm và giá trị xuất khẩu tăng 23 %.(Sơ đồ 1)
Sức Ðp của thu nhập thấp và thất nghiệp trở nên trầm trọng và đang được các tổ chức ở địa phương cũng như các cơ quan chức năng trong tỉnh, huyện quan tâm giải quyết. Tuy có diện tích tiềm năng có thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhưng cũng chỉ nuôi ở mức quảng canh. Do hệ thống thuỷ lợi rất kém, người dân còn thiếu những kiến thức, kinh nghiệm trong nuôi trồng thuỷ sản, việc xây dựng ao nuôi còn tuỳ tiện, không đúng quy cách, vốn đầu tư còn hạn chế…dẫn đến việc tăng năng suất thấp bình quân chỉ thu được 71kg tôm và 20 kg cua trên 1 ha năng suất này quá thấp so với tiềm năng của địa phương. Do đó việc đầu tư xây dựng dự án nuôi tôm tại xã Đông Hải huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình trở nên bức thiết hơn lúc nào hết. Xuất phát từ thực tế khó khăn trên của xã Đông Hải tôi đã quyết định lùa chọn nghiên cứu đề tài: “Xây dùng dự án phát triển nuôi tôm sú ở xã Đông Hải – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung
- Đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói chung và phát triển tôm sú. Đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân xã Đông Hải – huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình
- Cải thiện môi trường, tăng cao đời sống nhân dân. Góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng một số thôn của xã trong huyện
Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tiềm năng về đất đai, nguồn lực tại địa phương. Nâng cao thu nhập cho cộng đồng, giảm hộ đói nghèo và nâng hộ khá giàu. Tạo thêm nhiều việc làm cho cộng đồng.
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ để tận dụng được tiềm năng đất đai tại địa phương. Góp phần nâng cao thu nhập cho cộng đồng, giảm hộ đói nghèo và tăng số hộ khá và giàu.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho cộng đồng trong các lĩnh vực như nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ con giống, thức ăn, mua bán sản phẩm và những dịch vụ đi theo để phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nông dân trên địa bàn xã Đông Hải, các trạm trại giống ở địa phương và các khu vực có liên quan.
Các hộ nông dân nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu trên xã Đông Hải – huyện Tiền Hải – Thái Bình
Về thời gian: Nghiên cứu dự án từ ngày 15/6 đến 15/12/2004
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG CỦA DỰ ÁN PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM SÚ Ở XÃ ĐÔNG HẢI – TIỀN HẢI – THÁI BÌNH
2.1 Nhu cầu của cộng đồng
Hiện nay dân số của cả nước gần 80 triệu người, trong đó 77% dân số sống ở nông thôn mà sản lượng thuỷ sản tiêu dùng hàng ngày của gia đình sống ở khu vực nông thôn chủ yếu là do nuôi trồng và đánh bắt ở tự nhiên.
Theo số liệu điều tra của chuyên đề “ một số vấn đề về phát triển thị trường thuỷ sản trong nước” có tới 79.9% người tiêu dùng rất thích ăn các món thủy sản và chỉ có 20% người tiêu dùng cho biết họ không thích các món ăn thuỷ sản.
Thực phẩm ngoài các lợi Ých như dễ tiêu hoá, lượng đạm cao, ngon miệng, có lợi cho sức khoẻ…Các sản phẩm thuỷ sản được người tiêu dùng quan tâm là vấn đề giá cả sản phẩm. Giá cả sản phẩm thuỷ sản rất phong phú, phù hợp với mọi mức thu nhập khác nhau của nhiều tầng líp xã hội.
Mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm của thuỷ sản cao hơn so với các loại thực phẩm thịt khác vì trên 50% thuỷ sản đánh bắt từ môi trường tự nhiên. Đặc biệt nhiều bệnh dịch của gia súc xảy ra ở Châu Âu, Châu á, Mỹ…diễn ra trong năm 2002 – 2003, ảnh hưởng đến sức khoẻ cũng như tính mạng của con người, bên cạnh đó bệnh dịch của đối tượng thuỷ sản không gây nguy hiểm đến sức khoẻ cũng như tính mạng của con người, điều này khiến cho tâm lý tiêu dùng khẩu phần ăn hàng ngày của nhiều người muốn chuyển sang dùng thuỷ sản.
Tuy có diện tích tiềm năng có thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhưng cũng chỉ nuôi ở mức quảng canh do hệ thống thuỷ lợi kém, người dân còn thiếu những kiến thức kinh nghiệm trong nuôi trồng thuỷ sản, việc xây dựng ao nuôi còn tuỳ tiện, không đúng quy cách, vốn đầu tư còn hạn hẹp dẫn đến năng suất thấp.
Xã Đông Hải huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông bắc huyện Tiền Hải, diện tích tự nhiên của toàn xã là 558,2766 ha trong đó 278.443 ha đất nông nghiệp, diện tích ngập nước biển và nước lợ là 42.00, toàn xã có số dân là 3100 người với 607 hộ (bình quân 5 nhân khẩu/hộ), 780 lao động, thu nhập hàng tháng bình quân theo nhân khẩu là 90.000 đồng và quy ra thóc 176 kg/người/năm, có 27.9 % tổng số hộ thuộc diện nghèo đói, hàng năm có từ 100-200 lao động đi ra các tỉnh ngoài tìm việc làm. Sức Ðp của thu nhập thấp và thất nghiệp trở nên trầm trọng và đang được các tổ chức ở địa phương cũng như các cơ quan chức năng trong tỉnh, huyện quan tâm giải quyết. Tuy có diện tích tiềm năng có thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhưng cũng chỉ nuôi ở mức quảng canh do hệ thống thuỷ lợi rất kém, người dân còn thiếu những kiến thức, kinh nghiệm trong nuôi trồng thuỷ sản, việc xây dựng ao nuôi còn tuỳ tiện, không đúng quy cách, vốn đầu tư còn hạn chế dẫn tới việc năng suất thấp bình quân chỉ thu được 71 kg tôm và 20 kg cua/ha, năng suất này quá thấp so với tiềm năng của địa phương, do đó việc đầu tư xây dựng dự án nuôi tôm tại xã Đông Hải trở nên bức thiết hơn lúc nào hết.
Xã Đông Hải có diện tích có thể nuôi trồng thuỷ sản là 54 ha trong đó có 45 ha đang nuôi tôm dạng quảng canh và quảng canh cải tiến, tuy nhiên do chưa có sự đầu tư về thuỷ lợi, vốn không có nhiều nên năng suất hiện nay rất thấp, nếu được sự đầu tư đúng mức thì xã Đông Hải sẽ thu được một sản lượng tôm đáng kể đồng thời làm tăng thu nhập của nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo.
2.2 Những khó khăn gặp phải của dự án
Đây là 1 xã nghèo thuộc vùng ven biển huyện Tiền Hải. Diện tích chủ yếu là do lấn biển tạo thành.
Ngành nuôi trồng thuỷ sản nhất là mặn nợ chưa phát triển do nguồn vốn rất hạn hẹp, kỹ thuật nuôi trong dân chưa cao. Tuy có 1 số trại giống ở huyện Kiến Thuỵ – Hải Phòng đưa sang nhưng chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu của xã đa phần giống tôm sú phải nhập từ Nghệ An về.
Rào cản thương mại: Mỹ là thị trường tôm lớn nhất nước ta sau đó đến Nhật Bản nhưng do kém hiểu biết và không thông thạo về thị trường thế giới nên trong thời gian vừa qua chóng ta liên tục bị xảy ra vụ kiện chống phá giá cá tra và cá basa nay lại vụ kiện chống phá giá Tôm từ phía Mỹ gây nên rất nhiều tốn kém về kinh tế và khó khăn cho việc xuất khẩu của chúng ta.
Theo chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản của ngành thuỷ sản và các chính sách hiện hành của nhà nước những dự án phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy hoạch đã được duyệt thì nhà nước sẽ cấp kinh phí các công trình đầu mối, còn các công trình trong nội đồng thì những người nuôi chịu trách nhiệm về kinh phí. Là xã nghèo nên đó cũng là khó khăn lớn . Nguồn nước ngọt hiện nay chưa chủ động được vẫn còn hạn chế.
Dân ở đây còn rất nghèo, Thái Bình cũng là một tỉnh nghèo, điều kiện đầu tư và học tập rất khó khăn, nguồn giống phải mua trôi nổi ở tỉnh ngoài, thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện đất làm nông nghiệp rất hạn chế.
Hiện nay ngành nuôi trồng thuỷ sản nhất là mặn lợ chưa phát triển do nguồn vốn rất hạn hẹp, kỹ thuật nuôi trong dân chưa cao, mặt khác tuy ở Thái Bình đã có một số trại giống nhưng chưa thể đáp ứng đủ cho trong tỉnh, đa phần giống tôm sú phải nhập từ tỉnh khác về với hệ thống kiểm dịch chưa đủ mạnh nên có nơi, có lúc xảy ra tình trạng tôm giống bị bệnh hoặc chất lượng kém vẫn được đưa vào nuôi nên làm giảm năng suất và giảm thu nhập của nông dân.
Do điều kiện kinh tế nên nhiều hộ cho ăn thức ăn có sẵn tại địa phương như cá tươi, cám nên thỉnh thoảng xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Hiện nay bao quanh khu vực này là đê biển nhưng yếu cần phải tu sửa lại. Hệ thống kênh mương cấp nước và thoát nước thải chưa có, người dân nuôi trồng thuỷ sản sống ở trong làng và ngoài ao nuôi dựng lều, lán để bảo vệ.
2.3. Những căn cứ xây dựng dự án nuôi tôm sú
2.3.1 Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Địa hình
Khu vực nghiên cứu quy hoạch nuôi tôm xã Đông Hải thuộc vùng phía Đông của xã, nằm dọc theo sông Trà Lý nằm trong tuyến bao có cao trình từ +1.60 đến 2,60 đê đã có nhưng nói chung còn thấp và nhỏ chưa chống được triều cường khi gặp bão. Khu vực có cao trình từ m đến m. Đây là vùng trũng dọc cửa sông Thái Bình. Tổng diện tích khu vực nghiên cứu là: 54 ha
2.3.1.2.Khí hậu, thời tiết
Khu vực nghiên cứu thuộc vùng có khí hậu chuyển tiếp giữa chế độ Bắc Bộ và Bắc Trương Sơn
Chế độ bức xạ và nắng :
Lượng bức xạ tổng cộng bình quân đạt 107 kcal/cm2. Sè giê nắng trong năm đạt : 1777 giê/ năm.
Chế độ nhiệt:
Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm đạt 23.60C. Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối 40,40C vào ngày 15/5/1966. Nhiệt độ không khí thấp nhất tuyệt đối 50C vào tháng 1 của nhiều năm. Biên độ nhiệt độ không khí trong ngày: 6,20C. Nhiệt độ không khí thấp nhất trong ngày vào 5-6 giê mùa hè và 6-7 giê mùa đông. Tháng có biên độ nhiệt độ không khí thấp nhất là tháng 2: 4,60C. Tháng có biên độ nhiệt độ không khí cao nhất là tháng 7: 7,40C. Nhiệt độ mặt đất trung bình 270C. Cao nhất: 720C ngày 30/7/1968. Thấp nhất: 1,30C ngày 02/01/1974.
Chế độ Èm:
Độ Èm tương đối trung bình: 85%. Thấp nhất vào tháng 7 đạt 78%. Thấp nhất tuyệt đối: 20% ngày 12/12/1973.
Chế độ bốc hơi:
Lượng bốc hơi trong năm có 2 đỉnh vào tháng 7 và tháng 10. Lượng bốc hơi toàn năm 1.274 mm. Tháng có lượng bốc hơi lớn nhất là tháng 7: 142 mm. Tháng có lượng bốc hơi nhỏ nhất là tháng 2: 41 mm.
Chế độ gió:
Hướng gió thịnh hành vào mùa đông là Tây Bắc và Đông Bắc, vào mùa hè là Nam hay Tây Nam. Tốc độ gió trung bình: 2,2 m/s. Tốc độ gió bão mạnh nhất đạt 40m/s ngày 15/5/1962. Híng giã thÞnh hµnh vµo mïa ®«ng lµ T©y B¾c vµ §«ng B¾c, vµo mïa hÌ lµ Nam hay T©y Nam. Tèc ®é giã trung b×nh: 2,2 m/s. Tèc ®é giã b·o m¹nh nhÊt ®¹t 40m/s ngµy 15/5/1962.
Chế độ mưa:
Đây là vùng có lượng mưa dưới mức trung bình của toàn tỉnh. Lượng mưa trong năm đạt: 1.747 mm. Số ngày mưa: 126 ngày/ năm. Lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 8, 9, 10. Với tổng lượng chiếm 60-70% lượng mưa cả năm. Trong 9 tháng còn lại lượng mưa chỉ chiếm có 30-40%. Lượng mưa 1 ngày lớn nhất giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 8.
X1max = 192 mm ngày 05/5/1973.
Lượng mưa 3 ngày lớn nhất giai đoạn tháng 4 đến tháng 8.
X3max = 33 mm từ ngày 08 ¸ 10 tháng 8 năm 1979.
Lượng mưa tính theo các tần suất, thời gian thống kê từ tháng 4 ¸ tháng 8. Mưa 1 ngày lớn nhất:
X1max 10% = 151 mm.
X1max 20% = 132 mm.
Mưa 3 ngày lớn nhất:
X1max 10% = 240 mm.
X1max 20% = 198 mm
2.3.1.3. Điều kiện thuỷ văn
- Chế độ mức nước (Theo nguồn : Tính toán thuỷ văn Chi cục PCLB-QLĐĐ- 2002). Nghiêu cứu mực nước sử dụng tài liệu thuỷ văn để phân tích. Mực nước trung bình nhiều năm HTB = 0,15 m. Mực nước lớn nhất năm theo các tần suất.
Hmax 2% = +1,88 m.
Hmax 5% = + 1,80 m.
Hmax 10% = +1,74 m.
Mực nước đỉnh triều, chân triều trung bình các tháng, từ tháng 4 ¸ 12 như ( Bảng 1)
Trong đó:
Hđ : Mực nước trung bình đỉnh triều trong tháng (đơn vị m).
Hc : Mực nước trung bình chân triều trong tháng (đơn vị m).
HđTC : Mực nước tr/ bình đỉnh triều những ngày triều cường trong tháng (đơn vị m). TTC (ngày) : sè ngày có triều cường trong tháng.
TLN : sè ngày có thể lấy triều trong tháng.
2.3.1.4 Chất lượng nguồn nước
Nước ngọt là điều kiện không thể thiếu để nuôi tôm thâm canh đạt năng suất cao. Nguồn nước ngọt hiện tại kết hợp sử dụng nước của các giếng đào xung quanh khu dân cư, trạm bơm điện lấy nguồn từ kênh tiêu ở phía Bắc xã, còn một nguồn là khai thác nước ngầm. Nước ngầm có độ sạch cao, song chi phí lớn trong khai thác cũng như trong xử lý các chất trong nước ngầm có hại cho tôm. Nguồn nước ngọt tuy chỉ phân tích một mẫu nhưng kết quả cho thấy không có biểu hiện ô nhiễm, mặc dù khuẩn coli có cao hơn các mẫu nước khác.
Nước mặn được lấy từ Cửa sông Trà Lý, nếu lấy vào giai đoạn đỉnh triều cường độ mặn đạt 25 %0 ¸ 30 %0. Nước mặn có pH ổn định, hàm lượng BOD5, COD, dư lượng thuốc trừ sâu, khuẩn Ecoli, Phecal Coliorm, Salmonela, chất lơ lửng rất thấp, hàm lượng chất dinh dưỡng N, P, K tuy thấp nhưng trong quá trình nuôi trồng mau chóng được bổ sung. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản nước lợ.
2.3.1.5 Tính chất đất, dinh dưỡng:
Vùng dự án có thành phần trầm tích đáy chủ yếu là sét, bùn sét với nhiều mùn thực vật chôn vùi làm cho trầm tích mặt đáy có nguy cơ dễ dàng tích luỹ các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước, vì vậy quá trình nuôi trồng cần hết sức chăm lo vệ sinh tầng đáy, tìm các biện pháp hạn chế sự ô nhiễm nguồn nước từ trầm tích.
Đất trong khu vực nghiên cứu đều là các thành tạo trầm tích hiện đại, rất yếu, có lẫn hàm lượng đáng kể các chất hữu cơ, độ rỗng lớn, do đó việc xây dựng các công trình ở khu vực này phải được tính toán hết sức kỹ lưỡng.
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội:
2.3.2.1.Lao động và dân số
Đông Hải có dân số 3100 người với 1750 lao động trong đó nữ 720 người, Hàng năm có khoảng 100 - 200 người đi các tỉnh khác làm thuê chủ yếu là Hà nội và Hải Phòng. Có 67 người làm nghề thuỷ sản trong đó có 35 người làm thuê, có 20 phụ nữ tham gia trong nuôi trồng thuỷ sản nhưng những chủ hộ nuôi không thuê phụ nữ. Những lao động làm thuê chủ yếu là ở xã Đông Trà.
2.3.2.2.Thu nhập và sự nghèo đói:
Theo điều tra ở xã Đông Hải không có hộ giàu, hộ khá chiếm 19 % (với thu nhập từ 150.000 - 200.000 đồng/người/tháng), 53,1 % hé thu nhập trung bình và 27,9 % hé nghèo đói. Thu nhập bình quân là 90.000 đồng/người/tháng với cơ cấu thu nhập 96,45 % thu nhập chính từ nông nghiệ và thuỷ sản 0,8 % thu nhập chính từ công nghiệp, xây dựng, 1,29 % thu nhập từ dịch vụ, còn lại từ các nguồn khác. Thu nhập giữa các hộ có tham gia nuôi trồng thuỷ sản với những hộ không tham gia nuôi trồng thuỷ sản có sự chênh lệch rất lớn, trung bình thu nhập một năm của những hộ có nuôi trồng thuỷ sản là 9,566 triệu đồng so với 5,855 triệu đồng của những hộ không nuôi trồng thuỷ sản.
2.3.2.3.Giáo dục, văn hoá, y tế:
Với đặc điểm tình hình của xã Đông Hải là một xã kinh tế mới được thành lập lịch sử thôn cũ không có, nhân dân trong xã từ nhiều nơi về sinh sống không mang phong tục tập quán cá biệt hoặc truyền thống riêng, dân cư quy hoạch gọn gàng, tập chung. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, mối quan hệ trong cộng đồng dân cư không bị tác động.
Trên địa bàn có một ngôi chùa Quan TrÊn( đã được xếp hạng DTLSVH) thuộc đia phận xom 2 và 1 nhà thờ họ Giáo An Định thuộc địa phận xóm 3.
Trong xã có 1 trường cấp I với 32 giáo viên và 1032 học sinh, và 1 trường cấp II với 30 giáo viên và 816 học sinh, học sinh đi học cấp II phải đi xa 3- 4 km với 251 học sinh, số học sinh học đại học và trung học 23 người nhưng đa phần những người này sau khi tốt nghiệp không trở về địa phương.
Xã có một trạm xá với 1 bác sỹ, 2 y sỹ và 3 y tá trong đó có 1 hé sinh, những năm gần đây phong trào y tế cộng đồng phát triển tốt, việc tiêm chủng cho trẻ em, phòng trừ dịch bệnh tiến hành thường xuyên nên không xảy ra dịch bệnh.
- Chủ trương của địa phương trong việc phát triển kinh tế: Tỉnh và huyện quyết tâm đẩy mạnh việc nuôi trồng thuỷ sản nước lợ để phát huy tiềm năng của địa phương, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, xoá đói giảm nghèo xuống còn 12-13 %, tăng tỷ trọng cơ cấu công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác lên 45 %, thu nhập bình quân đạt 2,4 triệu đồng/người/năm.
2.3.2.4.Cơ sở hạ tầng
Quyền sở hữu và sử dụng đất:
Hiện nay tình hình sử dụng đất đang còn tuỳ tiện, các hộ tự ý khoanh vùng nuôi chưa có quy hoạch, các kênh mương mang tính tự phát nên kênh cấp và kênh thoát là một, các hộ nuôi phía trong không có cả đường cấp và thoát, đang còn nhiều diện tích bỏ hoang chưa sử dụng, nguồn nước đang sử dụng là nước mặn lấy từ sông Trà Lý, chưa có nguồn nước ngọt. Tất cả các hộ nuôi đều đấu thầu với thời gian 20 năm. HiÖn nay t×nh h×nh sö dông ®Êt ®ang cßn tuú tiÖn, c¸c hé tù ý khoanh vïng nu«i cha cã quy ho¹ch, c¸c kªnh m¬ng mang tÝnh tù ph¸t nªn kªnh cÊp vµ kªnh tho¸t lµ mét, c¸c hé nu«i phÝa trong kh«ng cã c¶ ®êng cÊp vµ tho¸t, ®ang cßn nhiÒu diÖn tÝch bá hoang cha sö dông, nguån níc ®ang sö dông lµ níc mÆn lÊy tõ s«ng Trµ Lý, cha cã nguån níc ngät. TÊt c¶ c¸c hé nu«i ®Òu ®Êu thÇu víi thêi gian 20 n¨m.
Hệ thống tưới tiêu:
Mấy năm gần đây công tác thuỷ lợi nội đồng phát triển tốt, nhiều nơi đã được bê tông hoá kênh mương. Nước ngọt cung cấp cho sản xuất nông nghiệp là do hệ thống giếng khoan và giếng đào cung cấp và một số diện tích do trạm bơm ở phía Bắc của xã cung cấp cho diện tích nông nghịêp.
Các phía đông và nam của vùng nuôi tôm xã Đông Hải có hệ thống đê bao tổng chiều dài 7 km, nhưng đê còn thấp nhỏ chưa đảm bảo khả năng chống lũ bão.
Hệ thống cung cấp nước mặn cho làm muối và nuôi trồng thuỷ sản là Cửa sông Trà Lý.
Giao thông:
Hệ thống giao thông đến trung tâm xã tương đối thuận lợi đã có đường nhựa về đến xã nhờ huyện có dự án đường liên thôn liên xã. Đường đến vùng nuôi trồng thuỷ sản đã được nâng cấp rất thuận tiện cho việc đi lại. HÖ thèng giao th«ng ®Õn trung t©m x· t¬ng ®èi thuËn lîi ®· cã ®êng nhùa vÒ ®Õn x· nhê huyÖn cã dù ¸n ®êng liªn th«n liªn x·. §êng ®Õn vïng nu«i trång thuû s¶n ®· ®îc n©ng cÊp rÊt thuËn tiÖn cho viÖc ®i l¹i.
PHẦN III
NỘI DUNG XÂY DỰNG DỰ ÁN
3.1 Các hoạt động của dự án
Diện tích vùng dự án được chia ra như sau: