Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam khi đã chính thức trở thành thành viên của WTO, ngành quảng cáo của Việt Nam, chủ yếu là hai thị trường Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh đang nóng dần lên khi có rất nhiều công ty và tập đoàn lớn đầu tư vào. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi kinh nghiệm về cách thức quản lý, cách tiếp cận một chương trình quảng cáo cụ thể Tuy nhiên, sự nóng của thị truờng này phần lớn là các doanh nghiệp nước ngoài tham gia, các doanh nghiệp quảng cáo trong nước chỉ tập trung vào khâu sản xuất thuần túy về mặt vật chất. Đây là thực trạng của đại bộ phận các doanh nghiệp trong nước, trong đợt thực tập tại công ty TNHH Thiện Mỹ, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động của công ty nên tôi cũng nhìn nhận được vấn đề này xác đáng hơn. Nhìn chung các công ty trong nước vẫn chưa chú trọng xây dựng hệ thống marketing cho công ty hay nói đúng hơn là chưa nhận thức được vai trò của nó đối với hoạt động kinh doanh. Mục đích của đề tài này là xây dựng cho công ty TNHH Thiện Mỹ nói riêng một hệ thống marketing mix, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển theo hướng chuyên nghiệp. Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi xin cảm ơn Thạc sĩ Hồ Chí Dũng và của ban giám đốc công ty TNHH Thiện Mỹ đã có những giúp đỡ trực tiếp để tôi hoàn thành đề tài này.
53 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống marketing mix và chiến lược marketing chung cho công ty TNHH Thiện Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam khi đã chính thức trở thành thành viên của WTO, ngành quảng cáo của Việt Nam, chủ yếu là hai thị trường Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh đang nóng dần lên khi có rất nhiều công ty và tập đoàn lớn đầu tư vào. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi kinh nghiệm về cách thức quản lý, cách tiếp cận một chương trình quảng cáo cụ thể…Tuy nhiên, sự nóng của thị truờng này phần lớn là các doanh nghiệp nước ngoài tham gia, các doanh nghiệp quảng cáo trong nước chỉ tập trung vào khâu sản xuất thuần túy về mặt vật chất. Đây là thực trạng của đại bộ phận các doanh nghiệp trong nước, trong đợt thực tập tại công ty TNHH Thiện Mỹ, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động của công ty nên tôi cũng nhìn nhận được vấn đề này xác đáng hơn. Nhìn chung các công ty trong nước vẫn chưa chú trọng xây dựng hệ thống marketing cho công ty hay nói đúng hơn là chưa nhận thức được vai trò của nó đối với hoạt động kinh doanh. Mục đích của đề tài này là xây dựng cho công ty TNHH Thiện Mỹ nói riêng một hệ thống marketing mix, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển theo hướng chuyên nghiệp. Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi xin cảm ơn Thạc sĩ Hồ Chí Dũng và của ban giám đốc công ty TNHH Thiện Mỹ đã có những giúp đỡ trực tiếp để tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I: Khái quát thị trường nghành quảng cáo nói chung ở Việt Nam và thực trạng kinh doanh của công ty TNHH Thiện Mỹ
I. Khái quát thị trường quảng cáo nói chung
1.Khái quát chung thị trường quảng cáo Việt Nam trong những năm gần đây
Nhìn lại những năm 90, ngành quảng cáo non trẻ của Việt Nam mới chỉ đơn giản tập trung ở quảng cáo ngoài trời với các panô quảng cáo lớn, các mẫu biển ngoài cửa hàng... và cũng chỉ xuất hiện một vài gương mặt như: Quảng cáo Trẻ, Quảng cáo Sài Gòn, Vinataf... Nhiều công ty quảng cáo được nâng cấp lên từ các cửa hàng, đơn vị in ấn, vẽ quảng cáo. Giờ đây, bộ mặt của quảng cáo VN đã rất phong phú, từ quảng cáo trên các phương tiện truyền thông như: truyền hình, báo giấy; quảng cáo trên các sản phẩm phục vụ tiêu dùng, in ấn...; và hiện nay là trên internet. Ý thức của các DN Việt Nam về vấn đề quảng cáo cũng được nâng lên rõ rệt, nhiều DN sẵn sàng chấp nhận chi phí phát sóng cho mỗi chương trình quảng cáo 30 giây trên truyền hình khoảng vài chục triệu đồng, hoặc dám "mạnh tay" bỏ cả tỷ đồng ra để dựng một thước phim quảng cáo vừa ý, trong đó có thể phải thuê người mẫu, diễn viên và sử dụng bối cảnh nước ngoài. Doanh thu từ thị trường quảng cáo năm 2003 lên tới con số trên 1 tỷ USD, và chắc chắn sẽ tăng mạnh trong các năm tới cùng với sự bùng phát của các phương tiện truyền thông. Và đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 130 của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Theo số liệu từ Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam (VAA) cả nước hiện có 3.000 doanh nghiệp có chức năng quảng cáo. Trong số đó, chỉ có 30 doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường quảng cáo Việt Nam. Hiện tại nghành quảng cáo tại Việt Nam được chia ra ba hình thức rõ rệt, với 3 loại hình hoạt động quảng cáo đó, thì loại hình thực hiện những hợp đồng trọn gói có doanh thu cao nhất nhưng số doanh nghiệp tham gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Loại thứ hai, với số lượng khoảng vài chục, gồm những công ty chỉ chuyên về lĩnh vực nhất định quảng cáo ngoài trời, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện… Loại thứ ba nhiều nhất, chủ yếu làm gia công lại hộp đèn, bảng hiệu… hoặc thuộc những lĩnh vực phụ trợ cho quảng cáo như thiết kế, in ấn… Loại hình này đông về số lượng nhưng thuộc thành phần kinh tế siêu nhỏ và nghiệp vụ thấp.
Nhìn chung sau hơn 10năm tahm gia vào thị trường quảng cáo các công ty quảng cáo Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Họ nhanh chóng tích luỹ kinh nghiệm của các đồng nghiệp nước ngoài và áp dụng nhanh chóng những khái niệm về quảng cáo vào thị trường Việt Nam. Phó chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) Christian De Ruty nhận định. Theo ông, thuận lợi lớn nhất của ngành quảng cáo đó là các công ty tư nhân ở Việt Nam ngày một hiểu rõ tầm quan trọng cũng như sức mạnh của quảng cáo đối với sự sống còn của sản phẩm.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong số hơn 1 tỷ USD doanh thu từ quảng cáo mỗi năm tại Việt Nam, các công ty trong nước chỉ đóng góp 10-20%. Trên 80% còn lại thuộc về số ít những tập đoàn quảng cáo lớn trên thế giới. “Tại thị trường nội địa, nếu chỉ tính mảng gia công, thực hiện những công đoạn cuối cùng của quá trình quảng cáo thì các doanh nghiệp trong nước chiếm tới 90%. Nhưng nếu tính những hợp đồng quảng cáo lớn nhất, trọn gói thì các doanh nghiệp nước ngoài chiếm tới 90%”. Nguyên nhân chính, là do các tập đoàn quốc tế chưa tin vào trình độ nghiệp vụ của các công ty quảng cáo Việt Nam, vì vậy họ chỉ thuê các công ty nước ngoài. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam nhận được hợp đồng quảng cáo cho những tập đoàn như vậy, và nếu có cũng chỉ là hợp đồng phụ thầu lại của một đối tác nước ngoài. “Trong khi đó, khách hàng chủ yếu là những doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam, họ tin vào chất lượng quảng cáo trong nước nhưng lại không đủ tiền để trang trải mọi chi phí”. Nhiều người trong ngành đều thừa nhận trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước đang là một hạn chế không nhỏ. Ở Việt Nam chưa có trường lớp nào đào tạo chính quy về chuyên ngành này. Bản thân các công ty khi nhận người đều phải đào tạo lại từ đầu nên phát triển nhân sự rất chậm. Cũng vì hạn chế về chuyên môn, nhiều đơn vị chỉ dám nhận làm từng phần, và chỉ mang tính chất gia công nhiều hơn. “Rất nhiều công ty tự gọi là quảng cáo nhưng thực chất họ chỉ đang gia công quảng cáo. Giai đoạn quan trọng trước đó là nghiên cứu và xây dựng, sáng tác ra lôgô của các thương hiệu thì không mấy người tham gia. Đưa sản phẩm vào hoạt động truyền thông đơn giản hơn nhiều”.
Ở tầm vĩ mô, Tổng thư ký Hiệp hội quảng cáo Việt Nam Trần Nguyên Đán cho rằng, ngành quảng cáo vẫn chưa được đánh giá một cách đúng mực. “Phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu thì không thể thiếu quảng cáo. Lợi ích mà nó mang lại cho nền kinh tế không hề nhỏ. Ví dụ, để làm ra 1 tỷ USD, ngành thủy sản phải chi tới 60% cho tàu bè, đánh bắt, chế biến… nhưng quảng cáo chỉ mất chưa đến 10%.Vậy mà không ít người nghĩ nó như một tệ nạn và đặt ra những rào cản để hạn chế”,
Theo ông Đán, ngành quảng cáo luôn bị những khống chế về mặt chính sách, dù đã có hẳn một pháp lệnh cũng với những nghị định hướng dẫn riêng nhưng các doanh nghiệp trong ngành luôn bị làm khó dễ bới những quy định riêng của mối địa phương. Nếu như TP HCM có quy định cấm quảng cáo ngoài trời thì ở Đà Nẵng lại phân biệt mức phí trên không với mức phí dưới nước. “Còn ở Hà Nội, các thủ tục làm giấy phép quảng cáo đôi khi khó quá. Vì vậy, mới có chuyện các nhà quảng cáo phải tồn tại bằng cách dựng biển không phép. Cùng chung nỗi bức xúc này, Tổng giám đốc Công ty Quảng cáo và Hội chợ Thương mại Việt Nam (Vinexad) Nguyễn Thanh Thản cho biết thêm, mới đây chính phủ lại có văn bản mới quy định quảng cáo thương mại và hội chợ triển lãm phải do Bộ Thương mại quản lý, trong khi Bộ Văn hoá Thông tin cũng đang quản lý lĩnh vực này. “Qua quá nhiều cửa, mất nhiều thời gian, chúng tôi làm sao đáp ứng được yêu cầu của khách hàng”,
Theo Hiệp hội Quảng cáo, khung pháp lý của Việt Nam chưa theo sát hoạt động xây dựng thương hiệu và quảng cáo. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất, tính chuyên nghiệp cũng như đóng góp của quảng cáo đối với kinh tế để đưa ra những quyết định sát thực hơn.
2. Tình hình cạnh tranh
Có thể nói chưa bao giờ quảng cáo len lỏi sâu sắc vào cuộc sống, chi phối sự lựa chọn của người tiêu dùng mạnh mẽ như vài năm trở lại đây ở Việt Nam. Và trong nội bộ giới quảng cáo đang diễn ra một cuộc chiến thật sự.
Theo chân các tập đoàn lớn như: Unilever, Colgate, Coca Cola, Pepsi..., các công ty quảng cáo nước ngoài tràn ngập vào thị trường Việt Nam. Hiện có khoảng gần 30 DN quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam, gồm các đại gia như: JW.Thompson, Mc Can, Sattchi, Densu... Riêng JW.Thompson đã chiếm tới 40% thị phần quảng cáo Việt Nam. Các công ty quảng cáo nước ngoài đang phải ký hợp đồng quảng cáo thông qua các DN quảng cáo Việt Nam, họ sẽ phải chia sẻ hoa hồng cho đối tác Việt Nam. Bảo hộ cho ngành quảng cáo ''non trẻ'' là cần thiết. Tuy nhiên, bảo hộ cũng chỉ là mức độ, điều cốt yếu là DN Việt Nam phải tự biết dùng sức mình để ''bơi'' trong một thị trường quảng cáo đang cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp quảng cáo trong nước va các công ty nước ngoài gần như la ko có….hay nói một cách đúng hơn các công ty quảng cáo Việt Nam chưa đủ nguồn lực về tài chính cũng như con người để cạnh tranh chính vì lý do đó như trên đã khái quát trong 1 tỷ USD doanh thu từ quảng cáo mỗi năm tại Việt Nam, các công ty trong nước chỉ đóng góp 10-20%. Trên 80% còn lại thuộc về số ít những tập đoàn quảng cáo lớn trên thế giới. Nhìn nhận con số chia phần này, nhiều giám đốc các công ty quảng cáo trong nước cho là còn “khá lạc quan”, và gần như hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều chấp nhận sự “thống trị“ của các công ty quảng cáo nước ngoài nhưng nhìn một cách tổng thể đây cũng là một “bức tranh” tất yếu, khi Việt Nam mới bước chập chững vào dòng chảy của nền kinh tế toàn cầu.
Theo một số giám đốc trong nghành quang cáo thì sự cạnh tranh có thể nói diễn ra mạnh nhất và khốc liệt nhất đó là chính các công ty quảng cáo trong nước. Các công ty thi nhau giảm giá thành nhằm tranh giành nhau những gói thầu rất nhỏ do các công ty nước ngoài để lại và những gói thầu này tập trung chủ yếu vào khâu gia công hoàn thiện chương trình quảng cáo ở góc độ vật chất. Như vậy những doanh nghiệp quảng cáo trong nước sẽ phải đối mặt với sự canh tranh rất quyết liệt và sẽ còn rất lâu nữa nhũng doanh nghiệp này mới đủ tầm để cạnh tranh với những công ty nước ngoài. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với những kỹ thuật khoa học tiên tiến, với cách thức tổ chức quản lý chuyên nghiệp của các doanh nghiệp nước ngoài để từ đó có thể hoàn thiện mình hơn về mặt kiến thức cũng như trình độ chuyên môn. Ngoài ra khi những doanh nghiệp quảng cáo trong nước còn có thể lựa chon hình thức hợp tác với các đối tác quảng cáo nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như gia tăng thị phần cho các doanh nghiệp quảng cáo trong nước…
Tóm lại, trong những năm sắp tới thị trường quảng cáo ở Việt Nam được dự đoán là phát triển rất sôi động với sự chuyên nghiệp và chất lượng hơn. Nhưng công ty quảng cáo trong nước sẽ lớn dần lên và có khả năng thích nghi được với sự biến đổi của thị trường trong nước.
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty được thành lập và lấy tên giao dịch chính thức
là Thiện Mỹ, với số vốn điều lệ là 200 triệu đồng. Hoạt động trong ngành quảng cáo.
2002-2003. Công ty bước đầu đi vào hoạt động và đã có những khác hang nhất định.Kết quả hoạt động kinh doanh trong năm đầu tiên khá khả quan doanh thu thuần đạt xấp xi 4tỷ đồng và đóng góp vào ngân sách nhà nước 160triệu đồng tiền thuế.
2003-2004. Công ty tiếp tục có những bước phát triển mới , tạo lập được uy tín đói với một số khách hang trong cả nước…và doanh thu đạt 4,3tỷ đồng
2004-2005. Năm 2004 là một bước đột phá mới đối với sự phát triển của công ty đó là viiec hình thành thêm nhà xưởng mới và trang bị thêm cơ sỏ vật chất ký thuật mới, đánh dấu bứoc phát triển độc lập của công ty. Ngoài ra mang lưới khách hang tiếp tục được mở rộng trong và ngoài nước .Doanh thu tiếp tục tăng xấp xỉ 8,3tỷ đồng
Không có đột biến lớn trong tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, mạng lưới kinh doanh tiếp tục đựoc mở rộng trên pham vi toàn quốc,tuy nhiên doanh thu chỉ đạt 6,6 đồng
Năm 2006 công ty bứoc đầu mở rộng phạm vi hoạt động của mình sâu hơn vào lĩnh vưc quảng cáo thương mại,cac năm trước chủ yếu tập trung vào quảng cáo sản xuất, ngoài ra công ty đã có hợp đòng với một số khách hàng trong lĩnh vực PR và đã có những thành công bước đầu.
2007… Công ty có kế hoạch sẽ mỏ rộng phạm vi kinh doanh trên lĩnh vực quang cáo thương mại và tiếp tục tăng cưòng trình độ cho
1.2 Triết lý kinh doanh và mục tiêu
Từ đầu những 2002 những thành viên sáng lập ra công ty trách nhiệm hữu hạn Thiện Mỹ đã cam kết đem lại những sản phẩm với chất lượng tốt nhất đến tay nguời tiêu dung, cùng với sự say mê trong công việc công ty ngày một phát triển và đứng vững trên thị truờng. Tuy nhiên khi tình hình cạnh tranh ngay càng quyết liệt thị truờng muc tiêu có nguy cơ hẹp lại và đặt biệt khi các công ty quảng cáo nước ngoài đang “bước nhanh” vào thị truờng Việt Nam thì với triết lý kinh doanh định hứong vào sản phẩm như vậy là vẫn chưa đủ. Và điều này được ban giám đốc của công ty nhận thức rất rõ va hiện tại nhìn một cách tổng thể triết lý kinh doanh của công ty là “tập trung vào giá trị của khách hàng”, với triết lý kinh doanh này công ty đã chú ý nhiều hơn vào khách hàng, xem họ cần gì?, muốn gì? và như thế nào?. Các mối quan hệ với khách hang cũng được củng cố theo chiều sâu, hệ thống thông tin khách hàng đã được chú ý đến và dần hoàn thiện.
Nhìn chung với triết lý kinh doanh này khách hàng trung thành của công ty sẽ trung thành hơn và mở rộng được thị trừong của mình. Khả năng thỏa mãn nhu cầu về sản phẩm, giá cả, phân phối cũng sẽ tốt hơn và đem lai sự tiện ích cho khác hàng.
Trong những năm sắp tới mục tiêu kinh doanh của công ty là nâng cao khả năng cạnh tranh và từng bước chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa trong lĩnh vực hoạt động của mình. Để nói đến những mục tiêu xa hơn giám đốc công ty THHH Thiện Mỹ cho biết Công ty sẽ lựa chọn hình thức cổ phần hóa để huy động them vốn cho công ty và từ cơ sở đó sẽ đưa công ty trở thành tập đoàn lớn.
1.3 Nghành nghề kinh doanh
Công ty TNHH Thiện Mỹ hoạt đông trên khá nhiều lĩnh vực thuộc nghành quảng cáo gồm có:
+ Thiết kế chưong trình quảng cáo
Công ty nhận thiết kế toàn bộ một chương trình quảng cáo thương mại hoặc từng phần như thiết kế logo, xây dựng ý tưởng, thiết kế khẩu hiệu…..
+ Gia công biển quảng cáo công nghiệp
Công ty cũng nhận và thiết kế các biển quảng cáo công nghiệp với một số sản phẩm chủ yếu:
- Biển khung sắt cỡ lớn trên các trục đường cao tốc
- Biển led điện tử
- Biển quảng cáo dạng cột
- Băng rôn với số lượng lớn
+ PR
Nhìn chung PR vẫn là lĩnh vực còn rất mới đối với công ty, trên thực tế công ty mới chỉ cộng tác với một số công ty lớn chuyên về lĩnh vực này như: MVA(công ty cổ phần giải trí truyền hình); T&A; AIT…..đây có thể nói là một bước đệm khá tốt cho công ty khi muốn học hỏi kinh nghiệm cũng như từng bước chuẩn bị xâm nhập xâu hơn trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên hoạt động chủ yếu cua công ty nằm ở lĩnh vực quảng cáo sản xuất, đây là lĩnh vực chiếm phần lớn doanh thu hàng năm.
1.4 Cơ cấu tổ chức quản lý và chức năng của từng bộ phận
a. Cơ cấu tổ chức
PHÒNG GIÁM ĐỐC
PHÒNG THIẾT KẾ
PHÒNG HÀNH CHÍNH
PHÒNG KẾ TOÁN
XƯỞNG SẢN XUẤT
b. Chức năng ,nhiệm vụ từng bộ phận
Bộ phận quản lý:
Phòng giám đốc: đây là phòng ra những quyết định chiến lược cho công ty, và giám sát trực tiếp các phòng còn lại. Ngoài ra vì chưa thành lập phòng marketing nên giám đốc công ty cũng là người trực tiếp quan hệ với khách hàng và tìm kiếm hợp đồng chủ yếu cho công ty.
Phòng kế toán: Có chức năng cân quản lý thu chi và cân bằng luồng tiền ra vào của công ty.
Phòng thiết kế: Đây là phòng có chức năng đưa ra những mẫu mã quảng cáo mới, và đưa ra những sản phẩm phù hợp nhu cầu của khách hàng. Đây có thể xem như trái tim của công ty, là nơi trực tiếp thể hiện năng lực của công ty cũng như khả năng thích nghi với thị trường ngày một đa dạng.
Phòng hành chính: Chức năng chủ yếu của bộ phận này là quản lý công việc hàng ngày của công ty, sắp xếp lịch làm việc, nhận phản hồi từ khách hàng.
Bộ phận sản xuất:
Xưởng sản xuất: có chức năng thi công những mẫu mã từ phòng thiết kế, lắp đặt sản phẩm cho khách hàng.
B. Thực trạng kinh doanh của công ty
2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
2.11 Môi trường marketing vĩ mô
Môi trường pháp lý: Điều được thừa nhận rộng rãi là môi trường kinh doanh ở nước ta đã có những bước tiến lớn về phía trước theo hướng phù hợp hơn với đòi hỏi của thực tế và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu của cuộc sống, môi trường pháp lý ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập như các thể chế kinh tế thị trường chưa được xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ, nhiều bộ luật cơ bản như luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền...chậm được ban hành; chưa đủ minh bạch, thiếu sự ổn định cần thiết, tính nhất quán chưa cao và khó tiên liệu trước. Đặc biệt là còn nhiều văn bản Quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành chưa sát hợp với điều kiện và đòi hỏi của thực tiễn, không xuất phát từ quan điểm phục vụ và hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp hoặc mang tính chủ quan của một bộ phận cán bộ, cơ quan quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, giữa các quy định luật pháp ghi trên giấy và tổ chức thực hiện trên thực tế còn khoảng cách khá xa do nhiều nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất các quy định luật pháp còn thiếu sự đồng bộ, còn chứa đựng những yếu tố chưa sát hợp thực tiễn; thứ hai tổ chức thực hiện chưa triệt để và nghiêm minh; thứ ba tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước chậm được đẩy lùi. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho các quy định pháp luật bị bóp méo, sai lệch trong quá trình áp dụng để nhũng nhiễu, trục lợi. Trong một môi trường pháp lý như vậy, hoạt động kinh doanh luôn gặp nhiều khó khăn, tăng thêm các loại chi phí không đáng có và cuối cùng làm giảm hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp nói chung cũng như công ty TNHH Thiện Mỹ nói riêng. Hơn nữa khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO thì với một môi trường pháp lý như vậy sẽ là rào cản rất lớn khi các công ty nước ngoài đầu tư vào Viêt Nam, từ lý do đó có thể kìm hãm sự phát triển nói chung của các nghành kinh tế nói chung và nghàng quảng cáo nói riêng.
Về môi trường kinh tế: đã có sự cải thiện đáng kể trong các cân đối vĩ mô. Thâm hụt ngân sách giảm, quan hệ giữa tích luỹ và đầu tư trở nên hài hoà hơn. Trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, quan hệ và sự bất hợp lý giữa lãi suất cho vay tiền VNĐ và USD đã được thu hẹp. Thời gian qua, chúng ta duy trì được tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu ở mức cao và liên tục trong nhiều năm; Đạt thành tích tốt trong xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng chưa cao do năng suất lao động và hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh quốc tế còn thua kém; làm phát sau một số năm được kiềm chế tốt thì trong 9 tháng đầu năm 2004 có nhiều biến động tăng, khó kiểm soát; trong khi đó, do chưa có luật cạnh tranh nên tình trạng bảo hộ thiếu hợp lý, lạm dụng độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như điện lực, dầu khí, hàng không chậm được xoá bỏ đã trở thành các rào cản cho cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ. Nhưng nhìn chung nền kinh tế đã có những biến chuyển lớn, đời sông sống nhân dân được nâng cao và đây là cơ hội rất lớn cho các nghành công nghiệp sản xuất và dich vụ. Từ đó nó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều nghanh khác trong đó có nghàng quảng cáo.
Về môi trường đầu tư : Nhìn chung môi trường đầu tư ở nước ta hiện được đánh giá là có những thế mạnh như sự ổn định về chính trị, xã hội và đang có những tiến bộ theo hướng thông thoáng, hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, vẫn còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cụ thể: Các thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu rõ ràng, minh bạch, thực hiện thiếu nhất quán, nhất là trong lĩnh vực nhạy cảm như thuế, hải quan, xuất - nhập khẩu và cho thuê đất... Tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ trong bộ máy hành chính vẫn còn, trong khi dịch vụ công còn thiếu tính chuyên nghiệp và kém chất lượng; kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn yếu kém, dẫn đến tăng chi phí và gây khó khăn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh và giảm tính cạnh tranh do chi phí vận tải, bưu chính viễn thông... còn đắt hơn nhiều so với cá