Môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nói riêng hiện đang là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Việc khắc phục suy thoái môi trường, cải tạo môi trường đang ô nhiễm thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thường được đầu tư bởi Ngân sách Nhà nước hoặc nguồn vốn vay nước ngoài.
Việc cải thiện môi trường một khu vực ô nhiễm được xem xét theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, những chủ thể gây ô nhiễm khu vực phải có trách nhiệm chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Hiện nay đã có rất nhiều các nhà máy thường xuyên phải đóng phí về nước thải, rác thải.
Tuy nhiên người ta thường không xét tới khía cạnh khi khu vực ô nhiễm được cải tạo sẽ có khá nhiều người được hưởng lợi và họ sẵn sàng trả một khoản tiền nhất định để đóng góp cho việc cải tạo. Vì vậy việc tính tới thu mức phí đóng góp cải thiện môi trường của những người được hưởng lợi trực tiếp từ việc cải thiện môi trường là cần thiết, giúp giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước.
Trường hợp đề tài nghiên cứu tập trung vào việc cải thiện môi trường sông Tô Lịch (nằm trong Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội). Sông Tô Lịch ô nhiễm chủ yếu do 3 nguồn: nước thải sinh hoạt của dân cư, nước thải bệnh viện và nước thải của các nhà máy. Như vậy, theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, dân cư, nhà máy và bệnh viện là ba chủ thể có trách nhiệm phải chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Nhưng nếu nhìn công việc cải tạo sông Tô Lịch theo nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả tiền”, thì việc chỉ thu qua phí nước thải là chưa đầy đủ. Khi sông được cải tạo, thành phố Hà Nội sẽ thoát khỏi tình trạng ngập úng hàng năm đặc biệt những người được hưởng lợi trực tiếp nhiều nhất là bộ phận dân cư sống hai bên bờ sông Tô Lịch bởi cải tạo sông cũng có nghĩa là môi trường sống của họ được cải thiện.
Nếu Nhà nước cải thiện môi trường sông Tô Lịch chỉ bằng nguồn vốn cải tạo đầu tư từ chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong quá trình quản lí và sử dụng do sự xuất hiện của một số “người ăn theo”, chủ yếu là bộ phận dân cư ở hai bên sông. Vì vậy, sự kết hợp giữa vốn của Nhà nước, nguồn thu từ phí nước thải cùng với nguồn vốn huy động từ dân cư hai bên sông để cải tạo sông Tô Lịch là phương án có tính khả thi và bền vững.
Chính từ những lý do trên đã thôi thúc chúng em thực hiện đề tài: “Xây dựng mô hình xác định mức phí đóng góp của cộng đồng dân cư trực tiếp hưởng lợi từ việc cải thiệnmôi trường sông Tô Lịch giúp giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà (Trường hợp nghiên cứu mẫu: Dự án cải tạo sông Tô Lịch).
64 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình xác định mức phí đóng góp của cộng đồng dân cư trực tiếp hưởng lợi từ việc cải thiệnmôi trường sông Tô Lịch giúp giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà (Trường hợp nghiên cứu mẫu: Dự án cải tạo sông Tô Lịch), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nói riêng hiện đang là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Việc khắc phục suy thoái môi trường, cải tạo môi trường đang ô nhiễm thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thường được đầu tư bởi Ngân sách Nhà nước hoặc nguồn vốn vay nước ngoài.
Việc cải thiện môi trường một khu vực ô nhiễm được xem xét theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, những chủ thể gây ô nhiễm khu vực phải có trách nhiệm chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Hiện nay đã có rất nhiều các nhà máy thường xuyên phải đóng phí về nước thải, rác thải...
Tuy nhiên người ta thường không xét tới khía cạnh khi khu vực ô nhiễm được cải tạo sẽ có khá nhiều người được hưởng lợi và họ sẵn sàng trả một khoản tiền nhất định để đóng góp cho việc cải tạo. Vì vậy việc tính tới thu mức phí đóng góp cải thiện môi trường của những người được hưởng lợi trực tiếp từ việc cải thiện môi trường là cần thiết, giúp giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước.
Trường hợp đề tài nghiên cứu tập trung vào việc cải thiện môi trường sông Tô Lịch (nằm trong Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội). Sông Tô Lịch ô nhiễm chủ yếu do 3 nguồn: nước thải sinh hoạt của dân cư, nước thải bệnh viện và nước thải của các nhà máy. Như vậy, theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, dân cư, nhà máy và bệnh viện là ba chủ thể có trách nhiệm phải chi phí cho thiệt hại môi trường do họ gây ra. Nhưng nếu nhìn công việc cải tạo sông Tô Lịch theo nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả tiền”, thì việc chỉ thu qua phí nước thải là chưa đầy đủ. Khi sông được cải tạo, thành phố Hà Nội sẽ thoát khỏi tình trạng ngập úng hàng năm đặc biệt những người được hưởng lợi trực tiếp nhiều nhất là bộ phận dân cư sống hai bên bờ sông Tô Lịch bởi cải tạo sông cũng có nghĩa là môi trường sống của họ được cải thiện.
Nếu Nhà nước cải thiện môi trường sông Tô Lịch chỉ bằng nguồn vốn cải tạo đầu tư từ chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong quá trình quản lí và sử dụng do sự xuất hiện của một số “người ăn theo”, chủ yếu là bộ phận dân cư ở hai bên sông. Vì vậy, sự kết hợp giữa vốn của Nhà nước, nguồn thu từ phí nước thải cùng với nguồn vốn huy động từ dân cư hai bên sông để cải tạo sông Tô Lịch là phương án có tính khả thi và bền vững.
Chính từ những lý do trên đã thôi thúc chúng em thực hiện đề tài: “Xây dựng mô hình xác định mức phí đóng góp của cộng đồng dân cư trực tiếp hưởng lợi từ việc cải thiệnmôi trường sông Tô Lịch giúp giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà (Trường hợp nghiên cứu mẫu: Dự án cải tạo sông Tô Lịch).
Mục tiêu nghiên cứu
Phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên CVM là phương pháp sử dụng đường cầu để đo lường phúc lợi xã hội. Mục tiêu chính của đề tài là muốn vận dụng những lý thuyết đã được học vào thực tế nhằm tăng khả năng nắm bắt một phương pháp hiệu quả, đưa ra một mô hình tính phúc lợi xã hội dựa vào Mức giá sẵn lòng trả (WTP) của người dân.
Từ mô hình này xác định được mức phí huy động trong bộ phận dân cư hai bên sông Tô Lịch theo phương thức thu từng hộ gia đình trong từng quý (3 tháng).
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi sử dụng phương pháp: Sử dụng phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên để xác định mức phí từ dân theo nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”.
Địa bàn nghiên cứu: Sự ô nhiễm của sông Tô Lịch có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sản xuất của toàn thành phố Hà Nội, đặc biệt là các khu dân cư sống sát hai bên bờ sông. Đề tài nghiên cứu chỉ đề cập đến việc thu phí của những khu dân cư này để cải tạo môi trường sông Tô Lịch mang lại lợi ích thiết thực cho họ bởi những hộ gia đình sống sát hai bên sông là những người chịu tác động trực tiếp của ô nhiễm môi trường đồng thời họ cũng là những người đầu tiên được hưởng lợi khi môi trường hai bên bờ sông được cải tạo. Địa bàn nghiên cứu trên 3 phường: phường Yên Hoà, phường Thượng Đình và phường Hạ Đình.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM): phương pháp này sử dụng cách phỏng vấn và phát phiếu điều tra các gia đình tại địa điểm môi trường cần nghiên cứu nhằm tìm ra Mức giá sẵn lòng trả (WTP) của người dân cho công việc cải tạo môi trường sông Tô Lịch. Kết hợp sử dụng phương pháp CVM với các lý thuyết kinh tế môi trường khác để tìm ra phương pháp phù hợp cho việc đánh giá lợi ích của người dân khi được hưởng hàng hoá, dịch vụ công cộng.
Kết cấu đề tài:
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý luận xác định phí bảo vệ môi trường.
Chương II: Hiện trạng ô nhiễm nước và Dự án cải tạo hệ thống thoát nước Hà Nội.
Chương III: xác định mức phí từ dân cho việc cải tạo sông Tô Lịch
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN XÁC ĐỊNH PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ môi trường
1.1.1.Khái niệm
Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội khoá 10 qui định: “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí”.
Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại Mục A, Khoản 10 pháp lệnh gồm 11 khoản trong đó có các loại phí liên quan tới môi trường đặc biệt là phí bảo vệ môi trường. Phí bảo vệ môi trường được Nghị định số 57/2002/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí qui định thành 6 loại như sau:
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
- Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các loại nhiên liệu đốt khác.
- Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
- Phí bảo vệ môi trường về tiếng ồn.
- Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ môi trường đối với khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản khác.
Như vậy phí nói chung, phí bảo vệ môi trường nói riêng được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một dịch vụ nào đó (chẳng hạn dịch vụ về môi trường). Để đảm bảo chất lượng môi trường sống cho các đối tượng xã hội, Nhà nước phải đầu tư một khoản tài chính lớn cho công tác bảo vệ môi trường. Do vậy, trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân là phải trả một phần chi phí nêu trên cho Nhà nước. Hiện nay, ở Việt Nam đang thực hiện các loại phí như: phí vệ sinh thành phố, phí về cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu trên đồng ruộng và đặc biệt đã có qui định cụ thể về mức và phương thức đóng góp Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Đây hầu hết là các loại phí dựa trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, ở Việt Nam hiện nay còn chưa quan tâm tới việc thiết lập các loại phí dựa trên cơ sở nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”.
1.1.2. Các nguyên tắc trong xác định mức phí bảo vệ môi trường.
a. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ các sáng kiến do tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974 . PPP “Tiêu chuẩn” năm 1972 có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP “Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc tuân theo các chỉ tiêu đối với viềc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô mhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môi trường ở trong trạng thái chấp nhận được.
b. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền (BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu cho Nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá nhân không phải trả cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là những người được hưởng lợi cần phải đóng góp. Tuy nhiên, số tiền này không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải có một chính sách do Nhà nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lợi phải đóng góp nên nguyên tắc BPP chỉ tạo ra sự khuyến khích đối với việc bảo vệ môi trường một cách gián tiếp.
c. Nguyên tắc "Đôi bên cùng có lợi"
Đối với các dự án đầu tư cho bảo vệ môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao và có tính bền vững thì vận dụng nguyên tắc này là thích hợp. Ví dụ như huy động vốn đầu tư cho dự án bảo vệ rừng ngập mặn, không chỉ quốc gia duy trì vốn rừng bảo vệ bờ biển, đa dạng sinh học, góp phần cải thiện khí hậu toàn cầu nóng lên, mà cộng đồng dân cư địa phương cũng được hưởng lợi nguồn hải sản có tính bền vững và những sinh khối khác có từ hệ sinh thái rừng ngập mặn. Như vậy nếu có sự kết hợp nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, vốn từ ngân sách của chính phủ và vốn của cộng đồng dân cư địa phương thì hiệu quả mà dự án mang lại sẽ rất lớn. Đây chính là thể hiện một nguyên lý thường được áp dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường là nguyên lý cả hai cùng thắng ("Win - Win Principle").
1.2. Lý luận chung về hàng hoá công cộng
1.2.1. Hàng hoá công cộng
Hàng hóa công cộng có hai loại: hàng hóa công cộng thuần tuý và hàng hoá công cộng không thuần tuý.
Hàng hóa công cộng thuần tuý có hai đặc tính quan trọng. Hàng hoá công cộng mang tính không loại trừ và có chi phí sản xuất cận biên bằng không. Hàng hoà có đầy đủ hai đặc tính này được gọi là hàng hoá công cộng.
Tính không loại trừ của hàng hoá công cộng
Tính không loại trừ được thể hiện khi có một loại hàng hóa dịch vụ mà tất cả mọi người có nhu cầu tiêu dùng đều được hưởng loại hàng hoá, dịch vụ đó và khó có thể loại trừ họ ra khỏi việc hưởng lợi ích của dịch vụ đó.
Ví dụ đối với chương trình sức khoẻ quốc gia (tiêm chủng chống bại liệt, uốn ván...), không thể loại trừ bất kể ai không được hưởng lợi ích từ chương trình này. Giả định rằng mọi người đều thấy sức khoẻ có giá trị nhưng Chính phủ lại không cung cấp thì liệu tư nhân có cung cấp được không? Để làm việc này thì tư nhân sẽ thực hiện thu tiền cung cấp dịch vụ nhưng vì mỗi người đều cho rằng mình sẽ được hưởng dịch vụ bất cứ có đóng góp gì hay không nên mọi người sẽ không tự nguyện trả tiền cho dịch vụ đó. Chính vì thế, mọi người cần hỗ trợ hàng hoá này thông qua nộp thuế, tuy nhiên hàng hoá công cộng mang tính không thể loại trừ bởi nếu một người không dóng thuế hoặc phí thì anh ta vẫn được hưởng lợi ích từ hàng hoá, dịch vụ công cộng đó.
Trong thực tế cũng có một số hàng hoá có thể loại trừ được ai đó nhưng cũng rất tốn kém hoặc khó thực hiện. Ví dụ ở Việt Nam chương trình truyền hình quốc gia hiện nay là hàng hoá công cộng không mang tính loại trừ. Nếu như dịch vụ này mang tính loại trừ có thể như thu tiền cho mỗi kênh truyền hình thì cần thiết phải lắp đặt hệ thống mã hoá các kênh đòi hỏi rất nhiều kinh phí. Đồng thời điều này cũng có nghĩa là sẽ loại trừ những người nghèo, những người không có đủ tiền xem nhiều kênh hoặc một kênh bất kỳ. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới chính trị, các mục tiêu xã hội khác của Việt Nam.
Đặc tính chi phí sản xuất cận biên bằng không của hàng hoá công cộng.
Đặc điểm thứ hai của hàng hoá công cộng là không muốn loại trừ một ai: tiêu dùng của một cá nhân không làm giảm lượng tiêu dùng của một người khác, chi phí cận biên của việc cung cấp hàng hoá cho thêm một người là bằng không. Với chương trình truyền hình quốc gia của Việt Nam việc có thêm một ti vi bắt sóng cơ bản không làm thay đổi chi phí truyền hình. Điều này hoàn toàn khác với hàng hoá tư nhân. Khi ai đó đang sử dụng một hàng hoá tư nhân hay một dịch vụ do tư nhân cung cấp thì điều đó có nghĩa là người đó đã loại trừ người khác sử dụng dịch vụ hay hàng hoá đó.
c. Hàng hoá công cộng không thuần tuý.
Nhiều hàng hoá chỉ có một trong hai đặc điểm trên ở những mức độ khác nhau, có thể loại trừ nhưng không muốn loại trừ, hoặc có thể loại trừ nhưng rất tốn kém.
d. Vấn đề “người ăn theo” trong hàng hoá công cộng
“Người ăn theo” là người tìm cách hưởng thụ lợi ích của một hàng hoá công cộng mà không đóng góp chi phí để trang trải số hàng hoá đuợc cung cấp. Vấn đề “người ăn theo” xuất phát từ những người được khuyến khích phải hưởng thụ những lợi ích do người khác trả tiền còn bản thân họ không trả tiền. “Ăn theo” có thể là một chiến lược của bất kỳ cá nhân nào suy nghĩ rằng không có sự trừng phạt cho việc đó và chỉ có một số ít cá nhân lựa chọn chiến lược này như họ. Nếu mọi cá nhân trong cộng đồng đều lựa chọn chiến lược này thì sẽ không có sự sản xuất hàng hoá công cộng.
1.2.2. Đường cầu về hàng hoá công cộng.
Trong thực tế các cá nhân không mua các hàng hoá công cộng, tuy nhiên chúng ta có thể hỏi xem họ có thể cần bao nhiêu nếu như họ phải trả thêm tiền bao nhiêu đó cho mỗi đơn vị hàng hoá công cộng mà họ có thể dùng thêm. Đây không phải là một câu hỏi hoàn toàn mang tính giả định vì khi chi tiêu vào hàng hoá công cộng tăng lên thì thuế cá nhân cũng tăng lên. Chúng ta gọi khoản trả thêm này của cá nhân cho mỗi đơn vị hàng hoá công cộng thêm là giá thuế của anh ta. Bằng cách tăng hoặc giảm giá thuế chúng ta có thể vẽ được đường cầu hàng hoá công cộng. Chúng ta sử dụng cách này để vẽ các đường cầu tư nhân của hàng hoá công cộng.
Cộng các đường cầu này theo chiều dọc để có được đường cầu xã hội (đường cầu thị trường). Cộng theo chiều dọc là hợp lý bởi vì hàng hoá công cộng thuần tuý cần cung cấp cho các cá nhân với cùng một lượng như nhau. Chia theo khẩu phần là không thể thực hiện được và cũng là không mong muốn, bởi vì sử dụng hàng hoá công cộng của một cá nhân không làm giảm sự hưởng thụ của bất cứ người nào.
Đường cầu có thể coi như “đường sẵn sàng chi trả tiền cận biên” Tức là, tại mỗi mức sản lượng hàng hoá công cộng, đường đó đều cho biết cá nhân sẽ sẵn sàng trả bao nhiêu để có thêm một đơn vị hàng hoá công cộng. Do đó, tổng số theo chiều dọc của các đường cầu là đúng bằng tổng của sự sẵn sàng trả tiền cận biên của cá nhân, tức là tổng lượng mà tất cả các cá nhân sẵn sàng trả để có thêm một đơn vị hàng hoá công cộng.
Trong nền kinh tế, chúng ta thường sử dụng chủ yếu hệ thống thuế, phí và hệ thống phúc lợi để phân phối lại các nguồn lực. Phân phối các nguồn lực thông qua các hệ thống thuế và phúc lợi là tốn kém, có nghĩa rằng Chính phủ có thể có những cách thức khác để đạt mục tiêu phân phối lại của mình. Hệ thống thuế, phí có những tác động khuyến khích quan trọng thay đổi cơ cấu chi phí mà Chính phủ phải chi cho hàng hoá công cộng hàng năm. Việc thực hiện thu thuế, phí sẽ giảm bớt gánh nặng chi tiêu Ngân sách Nhà nước khi cung cấp các dịch vụ công cộng xã hội.
1.3. Phương pháp xác định mức phí bảo vệ môi trường
1.3.1. Cơ sở đánh giá chi phí- lợi ích môi trường
Trong thực tiễn khi chúng ta đánh giá một hàng hoá môi trường như một khu rừng miền núi, rừng ngập mặn, hồ nước, bãi biển, loài thực vật nào đó có ý nghĩa trước mắt và lâu dài mà việc lượng hoá đầy đủ những giá trị đó là rất khó thậm chí không lượng hoá được, do đó các nhà kinh tế học môi trường phải nhìn nhận đánh giá tài nguyên đó trên góc độ giá trị kinh tế.
Tổng giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên bao gồm giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng theo công thức:
TEV = UV + NUV
Trong đó TEV: tổng giá trị kinh tế
UV: giá trị sử dụng
NUV: giá trị không sử dụng
Giá trị sử dụng (UV) được phân thành giá trị sử dụng trực tiếp (DUV)và giá trị sử dụng gián tiếp (IUV):
UV = DUV + IUV
Giá trị không sử dụng (NUV) bao gồm giá trị lựa chọn (OV), giá trị để lại (BV) và giá trị tồn tại (EV):
NUV = OV + BV + EV
Giá trị sử dụng trực tiếp: thực chất liên quan đến giá trị đầu ra của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ môi trường, cụ thể đó là những nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị trên thị trường. Đối với một khu rừng, giá trị sử dụng trực tiếp là gỗ và động vật trong rừng.
Giá trị sử dụng gián tiếp: thông thường liên quan đến những chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn các hoạt động kinh tế xã hội và tạo ra ngăn chặn những thiệt hại môi trường, ví dụ như rừng có khả năng chống xói mòn, kiểm soát lũ lụt.
Giá trị không sử dụng: chủ yếu bao gồm những giá trị tồn tại và những giá trị tuỳ thuộc. Giá trị không sử dụng rất phức tạp cả về tính toán và nhận thức, nó thể hiện giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sinh vật nhưng không liên quan đến việc sử dụng thực tế, thậm chí không liên quan đến việc lựa chọn sinh vật này. Thay vào đó, giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự lựa chọn của con người, nghĩa là những giá trị này nằm trong nhận thức của con người nhiều hơn. Giá trị tồn tại của một khu rừng có thể là tính đa dạng sing học của rừng. Ví dụ như một loài cây ở hiện tại chưa có giá trị nhưng trong tương lai khi khoa học phát triển thì loài cây đó nếu được phát hiện như một loại thuốc hoặc có giá trị khác, đó chính là một giá trị tồn tại của khu rừng.
Trong lý thuyết kinh tế môi trường có 2 loại phương pháp chính để đánh giá những giá trị kinh tế của một loại hàng hoá và lượng hoá giá trị đó thành tiền. Đó là phương pháp sử dụng đường cầu và phương pháp không sử dụng đường cầu. Trong đó phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên là phương pháp có sử dụng đường cầu.
1.3.2. Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM)
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) là phương pháp đánh giá trị kinh tế của một tài sản môi trường thông qua việc điều tra, phỏng vấn ngẫu nhiên các đối tượng liên quan môi trường đó. Phương pháp CVM bỏ qua nhu cầu tham khảo giá trị thị trường của sản phẩm môi trường. Mặc dù có rất nhiều biến tố của kỹ thuật này, phương cách thường được áp dụng nhất là phỏng vấn các gia đình hoặc tại nhà họ và hỏi cái giá sẵn lòng trả (WTP) của họ cho việc bảo vệ môi trường. Sau đó các nhà phân tích có thể tính toán giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn.
Tổng giá trị của tài sản môi trường ước tính bằng cách nhân giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn với tổng số người thụ hưởng địa điểm hay tài sản môi trường đang xem xét.
Một ưu điểm của phương pháp CVM là trên lý thuyết nó được sử dụng để đánh giá các nguồn tài nguyên mà sự tồn tại tiếp tục của nó được người đánh giá cao, nhưng bản thân họ không bao giờ sử dụng đến nguồn tài nguyên đó cả.
Phương pháp CVM có một số nhược điểm tiềm ẩn sau:
* Nói ít đi WTP
Giả thiết chủ yếu của kỹ thuật CVM là tổng số WTP được những người trả lời phát biểu phải tương ứng với sự đánh giá của họ về tài sản đang xem xét. Các nhà phê bình nghi ngờ tính hiệu lực của một giả thiết như vậy, cho rằng bản chất giả thiết của phương án CVM làm cho câu trả lời của các cá nhân không đúng với giá trị thực. Trong một loạt thí nghiệm, người ta thấy rằng số tiền người dân nói là họ sẵn lòng trả chỉ khoảng 70% – 90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự đã trả. Tuy nhiên, do phần nói bớt di nầy tương đối nhỏ nên đây có thể không phải là vấn đề quá nghiêm trọng.
* Có sự chênh lệch khá lớn giữa giá trị WTP và WTA
Trên lý thuyết câu hỏi về việc trả tiền có thể được đặt ra như thường lệ “Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu (WTP) để có được tài sản môi trường tốt hơn” hoặc dưới dạng ít gặp hơn “Bạn sẵn lòng nhận bao nhiêu (WTA) để bồi thường cho việc tài sản môi trường này?”. Khi đem so sánh hai câu hỏi trên, các nhà phân tích để ý rằng WTA cao hơn WTP rất nhiều, một kết quả mà các nhà phê bình cho là mất hiệu quả của phương pháp CVM và cho thấy rằng khi trả lời các câu hỏi như thế các cá nhân muốn nói lên điều mà họ muốn nó xảy ra hơn là những đánh giá.
* Thiên lệch một phần-toàn phần
Các nhà phê bình phương pháp CVM đã lưu ý rằng nếu người ta lần đầu tiên được hỏi WTP của họ cho một phần tài sản môi trường (như một con sông trong hệ thống các con sông) và sau đó được hỏi đánh giá cho toàn bộ tài sản (nghĩa là toàn bộ hệ thống các con sông) thì số tiền được phát biểu là như nhau vì trong cách phân bố thông thường việc chi tiêu của họ: đầu tiên chia thu nhập khả dụng của họ thành nhiều khoản ngân sách (nhà ở, thực phẩm, xe hơi, giải trí) sau đó chia tiếp vào các khoản mục thực sự phải mua. Vì thế, đối với giải trí bước đầu xác định