Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới hệ thống các cơ quan quản lý kinh tế. Trên tinh thần đó việc đổi mới hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó Ngân hàng nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương thực hiện chức năng phát hành tiền và chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế và việc ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động đầu tư.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch ít rủi ro sang nền kinh tế thị trường với rủi ro là đặc trưng cơ bản thì sự gia tăng rủi ro trong hệ thống kinh tế là một điều tất yếu. Vì vậy, việc quản lý và đánh giá rủi ro, vỡ nợ được đặt ra như là một vấn đề trọng tâm trong hoạt động đầu tư của ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. Thực tế hoạt động trong thời gian qua cho thấy, việc quản lý rủi ro, vỡ nợ ở nước ta còn rất nhiều yếu kém như: Sự lạc hậu trong quản lý rủi ro, quản lý lượng hoá rủi ro và mô hình hoá đứng trên giác độ kỹ thuật là xu thế phát triển chính về quản lý rủi ro ngân hàng của các nước phát triển. Hiện nay, người ta không chỉ áp dụng mô hình như mô hình VAR để tính giá trị đang bị rủi ro, mà đối với rủi ro tín dụng không dễ lượng hoá, người ta áp dụng các mô hình như CREDITMERICS, KMV để tính. Những khái niệm về giá trị đang bị rủi ro là VAR, lượng hoá tín dụng còn chưa được nhận thức đúng đắn; các thị trường tổ chức dịch vụ trung gian của thị trường tiền tệ chưa được kiện toàn. Trong các thể chế tài chính thiếu các tổ chức độc lập đánh giá rủi ro tín dụng và xác suất vỡ nợ. Đó là các tổ chức xếp hạng tín dụng, các tổ chức kiểm toán, kế toán độc lập. Các tổ chức trung gian tài chính này và các công ty tư vấn thực hiện thu thập các thông tin thị trường một cách chính xác, kịp thời, toàn diện nhằm bảo vệ vốn của ngân hàng và các nhà đầu tư, nhờ đó làm giảm bớt những rủi ro phát sinh do nguồn thông tin thiếu đầy đủ và không chính xác ngây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ ra các quyết sách về rủi ro của các ngân hàng và các nhà đầu tư. Hiện nay, việc thành lập các tổ chức trung gian như thế này ở Việt Nam còn chậm và lạc hậu: chưa thành thành lập được các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập, điều này làm cho ngân hàng các nhà đầu tư rất khó khăn trong việc ra quyết định, làm cho việc phát hành cổ phiếu công ty không thể căn cứ vào chỉ số tín dụng của các công ty để xác định lợi suất phát hành, dẫn đến giá cả và lợi suất của cổ phiếu công ty để xác định lợi suất phát hành, dẫn đến giá cả và lợi suất của cổ phiếu công ty không phản ánh đúng tình trạng rủi ro của công ty. Việc xếp hạng tín dụng còn có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của ngân hàng thương mại và các nhà đầu tư. Một mặt giúp ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt, có khả năng trả nợ trong tương lai để đầu tư tín dụng, mặt khác thông qua xếp hạng tín dụng các khách hàng hiện có của mình để có những chính sách tín dụng hợp lý, như tăng dự phòng rủi ro hoặc tăng cường giám sát đối với những khoản vay có vấn đề. Thông lệ quốc tế, ở nhiều nước chính phủ khuyến khích việc xử lý và cung cấp thông tin cho thị trường tài chính, vì thế có nhiều cơ quan chuyên môn hoá xử lý và cung cấp thông tin về xếp hạng tín dụng để phục vụ cho các ngân hàng thương mại, các nhà đầu tư và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
56 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2008 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới hệ thống các cơ quan quản lý kinh tế. Trên tinh thần đó việc đổi mới hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó Ngân hàng nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương thực hiện chức năng phát hành tiền và chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế và việc ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động đầu tư.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch ít rủi ro sang nền kinh tế thị trường với rủi ro là đặc trưng cơ bản thì sự gia tăng rủi ro trong hệ thống kinh tế là một điều tất yếu. Vì vậy, việc quản lý và đánh giá rủi ro, vỡ nợ được đặt ra như là một vấn đề trọng tâm trong hoạt động đầu tư của ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. Thực tế hoạt động trong thời gian qua cho thấy, việc quản lý rủi ro, vỡ nợ ở nước ta còn rất nhiều yếu kém như: Sự lạc hậu trong quản lý rủi ro, quản lý lượng hoá rủi ro và mô hình hoá đứng trên giác độ kỹ thuật là xu thế phát triển chính về quản lý rủi ro ngân hàng của các nước phát triển. Hiện nay, người ta không chỉ áp dụng mô hình như mô hình VAR để tính giá trị đang bị rủi ro, mà đối với rủi ro tín dụng không dễ lượng hoá, người ta áp dụng các mô hình như CREDITMERICS, KMV để tính. Những khái niệm về giá trị đang bị rủi ro là VAR, lượng hoá tín dụng còn chưa được nhận thức đúng đắn; các thị trường tổ chức dịch vụ trung gian của thị trường tiền tệ chưa được kiện toàn. Trong các thể chế tài chính thiếu các tổ chức độc lập đánh giá rủi ro tín dụng và xác suất vỡ nợ. Đó là các tổ chức xếp hạng tín dụng, các tổ chức kiểm toán, kế toán độc lập. Các tổ chức trung gian tài chính này và các công ty tư vấn thực hiện thu thập các thông tin thị trường một cách chính xác, kịp thời, toàn diện nhằm bảo vệ vốn của ngân hàng và các nhà đầu tư, nhờ đó làm giảm bớt những rủi ro phát sinh do nguồn thông tin thiếu đầy đủ và không chính xác ngây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ ra các quyết sách về rủi ro của các ngân hàng và các nhà đầu tư. Hiện nay, việc thành lập các tổ chức trung gian như thế này ở Việt Nam còn chậm và lạc hậu: chưa thành thành lập được các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập, điều này làm cho ngân hàng các nhà đầu tư rất khó khăn trong việc ra quyết định, làm cho việc phát hành cổ phiếu công ty không thể căn cứ vào chỉ số tín dụng của các công ty để xác định lợi suất phát hành, dẫn đến giá cả và lợi suất của cổ phiếu công ty để xác định lợi suất phát hành, dẫn đến giá cả và lợi suất của cổ phiếu công ty không phản ánh đúng tình trạng rủi ro của công ty. Việc xếp hạng tín dụng còn có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của ngân hàng thương mại và các nhà đầu tư. Một mặt giúp ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt, có khả năng trả nợ trong tương lai để đầu tư tín dụng, mặt khác thông qua xếp hạng tín dụng các khách hàng hiện có của mình để có những chính sách tín dụng hợp lý, như tăng dự phòng rủi ro hoặc tăng cường giám sát đối với những khoản vay có vấn đề. Thông lệ quốc tế, ở nhiều nước chính phủ khuyến khích việc xử lý và cung cấp thông tin cho thị trường tài chính, vì thế có nhiều cơ quan chuyên môn hoá xử lý và cung cấp thông tin về xếp hạng tín dụng để phục vụ cho các ngân hàng thương mại, các nhà đầu tư và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm xếp hạng tín dụng:
Xếp hạng tín dụng (credit ratings) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng anh do John Moody đưa vào năm 1909 trong cuốn “ Cẩm nang chứng khoán đường sắt ” khi tiến hành nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng tín dụng lần đầu tiên cho 1500 loại trái phiếu của 250 công ty theo một hệt thống ký hiệu gồm 3 chữ cái A, B, C được xếp lần lượt từ (AAA) đến (C). Hiện nay những ký hiệu này trở thành chuẩn mực quốc tế. ở Việt Nam thuật ngữ xếp hạng tín dụng đang tồn tại nhiều tên gọi như: xếp loại tín nhiệm, xếp loại doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm, định dạng tín dụng, xếp hạng tín dụng, xếp hạng khách hàng.Trong đề tài này đề xuất cách gọi là “ xếp hạng tín dụng ”
Cho đến nay, khái niệm xếp hạng tín dụng chưa có được sự nhận thức thống nhất.
Theo từ điển thị trường chứng khoán, xếp hạng tín dụng là “cách ước tính chính thức tín dụng từ trước đến nay của cá nhân hay công ty và khả năng chi trả bao gồm tất cả các số liệu kiểm tra, phân tích hồ sơ lưu trữ về khả năng, trách nhiệm tín dụng của cá nhân và các công ty kinh doanh.
Theo Bohn, John A, viết trong cuốn “ Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi” thì “ Xếp hạng tín dụng là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại của nó”
Theo định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lunch, xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện thời của công ty xếp hạng tín dụng về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói khác đi, đó là cách đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoản cảnh hường về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng tín dụng chứa đựng ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín dụng.
Theo công ty Moody’s, xếp hạng tín dụng là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời hạn tồn tại của khoản nợ.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của NHNo & PTNT VN là một quy trình đánh giá xác suất một khách hàng tín dụng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính của mình đối với Ngân hàng cho vay như không trả được lãi và gốc nợ vay khi đến hạn hoặc vi phạm các điều kiện tín dụng khác. Các tình huống này là các rủi ro tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của Ngân hàng công thương Việt Nam là một quy trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với Ngân hàng cho vay như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Theo Samir EL Daher xếp hạng tín dụng là việc đánh giá mức độ tín nhiệm của người vay nợ xét về góc độ chấp hành các quy định tài chính cụ thể, đó có thể là một nhóm các quy định hoặc chỉ là một chương trình tài chính nhỏ nào đó như là một hợp đồng thương mại. Việc phân loại dựa trên xác suất vỡ nợ, đây là tiêu chí phản ánh khả năng lẫn sự sẵn sàng trả nợ của người vay cả gốc, lãi đúng hạn theo các quy định của khoản vay. Xếp hạng tín dụng không phải là việc đánh giá chung của người cho vay, bởi vì người vay có thể được đảm bảo bởi một bên thứ ba, như người bảo lãnh, bảo hiểm hay người thuê hợp đồng.
1.2. Đặc điểm của xếp hạng tín dụng.
Việc xếp hạng tín dụng được phân tích dựa trên những thông tin từ những người vay và từ những nguồn thông tin của các tổ chức xếp hạng tín dụng được coi là đáng tin cậy. Các tổ chức cung cấp dịch vụ xếp hạng tín dụng đã thể hiện rất rõ ràng trong cam kết của mình “ xếp hạng tín dụng không phải là một sự giới thiệu để mua bán hay tiếp tục nắm giữ một chứng khoán nợ . Vì việc xếp hạng tín dụng chỉ thực hiện chức năng độc lập là đánh giá mức độ rủi ro tín dụng. Đó chỉ là một tiêu chí phục vụ cho quá trình đưa ra các quyết định đầu tư”. Cho dù quá trình xếp hạng tín dụng diễn ra rất cẩn trọng, các tổ chức cung cấp dịch vụ xếp hạng tín dụng không tiến hành kiểm toán độc lập những thông tin mà người vay cung cấp, trong khi đó lại là nguồn thông tin cơ bản để xếp hạng tín dụng. Các tổ chức cung cấp dich vụ xếp hạng tín dụng không có trách nhiệm bồi hoàn cho những nhà đầu tư . Vì vậy, xếp hạng tín dụng là một nhân tố quan trọng, nhưng không thể thay thế hoàn toàn cho việc thuyết minh về tính đáng tin cậy của người vay.
1.3. Mục đích của xếp hạng tín dụng.
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân hàng không những phải hứng chịu những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gây ra những tổn thất to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ `rủi ro của các loại hình doanh nghiệp khác, vì tính chất lây lan của nó có thể làm dung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế của một quốc gia và theo phản ứng dây chuyền nó tác động đến hầu hết tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.
Hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tựu trung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi huy động bằng trái phiếu, kỳ phiếu và đi vay..) với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ vốn tự có của mình, mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay, thì ngân hàng thương mại không chỉ bị mất vốn tự có của bản thân, mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì vậy, tính chất trung gian chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với ngân hàng thương mại là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn của mình.
Việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được thực hiện nhằm hỗ trợ Ngân hàng trong việc:
- Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt.
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ; Hạng khách hàng cho phép Ngân hàng lường trước những dấu hiệu cho thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi và có những biện pháp đối phó kịp thời.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, xếp hạng tín dụng còn nhằm mục đích:
- Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn.
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Đối với thị các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán:
- Xếp hạng tín dụng đánh giá rủi ro dài hạn trên ảnh hưởng của chu kì kinh doanh và kèm theo xu hướng một nhà phát hành có thể trả được nợ trong tương lai hay không.
- Xếp hạng tín dụng đánh giá rủi ro một cách toàn diện và thống nhất dựa vào một hệ thống ký hiệu xếp hàng.
- Tính toán về khả năng sinh lợi của một khoản đầu tư được đo bằng các nhân tố thúc đẩy hoặc kìm chế các nghĩa vụ tài chính của một nhà phát hành.
- Xếp hạng tín dụng cung cấp những thông tin cần thiết cho người đầu tư về tình trạng của nhà phát hành để lựa chọn khi đầu tư vào một chứng khoán thích hợp.
- Xếp hạng tín dụng tạo điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. Với việc xếp hạng tín dụng, người đầu tư sẽ an tâm, tin tưởng và dễ dàng lựa chọn chứng khoán để đầu tư. Từ đó làm cho người phát hành dễ dàng tiếp cận được với các nguồn tài chính có thể thực hiện huy động với quy mô lớn và trên một phạm vi rộng kể cả huy động vốn từ nước ngoài.
- Xếp hạng tín dụng góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho người phát hành. Khi một người phát hành có uy tín thì với việc xếp hạng tín dụng sẽ giúp cho việc huy động vốn qua phát hành chứng khoán thuận lợi, dễ dàng hơn, đồng thời giảm được chi phí huy động vốn. Với nhà phát hành có thể phát hành trái phiếu với mức lãi suất thấp vẫn thu hút được các nhà đầu tư.
- Xếp hạng tín dụng thúc đẩy nhà phát hành nâng cao hơn trách nhiệm đối với các nhà đầu tư. Việc xếp hạng tín dụng liên quan chẵt chẽ đến uy tín với nhà phát hành, điều đó thúc đẩy người phát hành thục hiện tốt hơn các cam kết đối với các nhà đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi và tiền vốn vay.
- Xếp hạng tín dụng là nhân tố quan trọng khi đánh giá mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư so sánh đánh giá lợi nhuận - rủi ro giữa các công cụ đầu tư để tìm ra công cụ có lợi nhất vừa có hiệu quả vừa an toàn
- Xếp hạng tín dụng là công cụ quản lý danh mục đầu tư. Trong danh mục đầu tư có rất nhiều các loại chứng khoán khác nhau, dựa vào sự thay đổi của xếp hạng tín dụng các nhà đầu tư đánh đổi các chứng khoán trong danh mục đầu tư để thu lợi nhuận và tránh rủi ro.
- Xếp hạng tín dụng là công cụ đánh giá một số rủi ro có liên quan. Các ngân hang và các tổ chức tài chính trung gian khác với tư cách là một nhà đầu tư sử dụng xếp hạng tín dụng làm một tiêu chuẩn quan trọng khi quyết định cho vay, tài trợ dự án, thoả thuận swap.
Như vậy, mục đích của xếp hạng tín dụng là dựa trên cơ sở các số liệu kiểm tra, phân tích dữ kiện từ các hồ sơ lưu trữ, các báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán của doanh nghiệp để nhân xét đánh giá tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của các cá nhân và doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cho vay, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp hoặc tổ chức phát hành trái phiếu.
1.4. Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng
1.4.1. Sự hình thành của các tổ chức xếp hạng tín dụng
Các tổ chức xếp hạng tín dụng đã được ra đời từ đầu thế kỷ 20. Năm 1909, công ty John Moody của Mỹ đã khởi đầu cho việc xếp hạng chứng khoán. Công ty này chuyên xếp hạng trái phiếu ngành đường sắt, sau đó công ty tiếp tục xếp hạng các trái phiếu công nghiệp. Đến năm 1922, công ty Standard and Poor’s ra đời và tiến hành xếp hạng các trái phiếu công ty. Năm 1940 công ty bắt đầu xếp hạng các trái phiếu chính quyền địa phương, 1969 xếp hạng các thương phiếu, 1984 xếp hạng các quỹ trái phiếu và thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên tổ chức xếp hạng tín dụng lớn đầu tiên lại không phải là các công ty của Mỹ, mà là Tổ chức xếp hạng trái phiếu Canada( Canadian Bond Rating service) được thành lập và năm 1972; tiếp đến là Tổ chức xếp hạng trái phiếu Nhật Bản( Japanese Bond Rating Instiute) bắt đầu hoạt động từ năm 1975. Kể từ đó, hàng loạt các công ty xếp hạng khác đã được thành lập để phục vụ cho nhu cầu phát triển của thị trường tài chính. Năm 1982, Duff and Phelps bắt đầu xếp hạng cho hàng loạt các công ty lớn.
Các tổ chức xếp hạng tín dụng được thành lập trong thế kỷ 20 là sự kế thừa và phát triển của các loại hình đã được hình thành trước đó. Hoạt động chủ yếu của các công ty này là: Tổ chức thông báo xếp hạng tín dụng, tổ chức kinh doanh thông in bằng các ấn phẩm chuyên nghành, các ẩn phẩm tài chính và các ngân hàng.
1.4.2. Sự phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng
Các tổ chức xếp hạng tín dụng hiện nay có một quá trình hình thành rất lâu dài và rất sớm. Các nghiệp vụ xếp hạng tín dụng cũng ngày càng được hoàn thiện, cùng với sự phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng và sự đa dạng về nhu cầu thông tin.
Sự xuất hiện và phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng vào đầu thế kỷ 20 chủ yếu là ở Mỹ. Vì ở Mỹ, các công ty đường sắt lớn chủ yếu là các công ty tư nhân rất phát triển. Nó chính là tiền đề để tạo ra một thị trường trái phiếu lớn hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Hơn nữa, các công ty dịch vụ công cộng ở Mỹ cũng phát triển rất nhanh và đều tìm đến nguồn vốn trên thị trường nợ, cùng với mức thu nhập của người dân tăng nhanh cũng đã góp phần phát triển của thị trường này, điều này đã gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng.
Kể từ năm 1920, các tổ chức xếp hạng tín dụng hoạt động rất mạnh. Trong thời ký này trên thị trường nợ có quá nhiều hàng hoá, từ trái phiếu liên bang, trái phiếu địa phương, trái phiếu công ty đều rất phát triển rất nhanh theo cấp số nhân. Từ năm 1929 đến năm 1937 tỷ USD nợ chiếm khoảng 15% tổng nợ của các chính quyền liên bang và địa phương mất khả năng chi trả. Trong đó, 78% món nợ không có khả năng chi trả được xếp hạng Aa hoặc thớp hơn. Trong thời gian từ năm 1940 đến năm 1970, các tổ chức này hoạt động tương đối ổn định, thị trường nợ hoạt động tương đối an toàn và khôg có nhiều bước đột biến lớn.
Từ năm 1970 cho đến nay, sự phát triển của các tổ chức xếp hạng tín dụng đã phát triển hết sức mạnh mẽ và mang tính toàn cầu hoá. Trước những năm 70, tại các công ty xếp hạng tín dụng hàng đầu cũng chỉ có một số ít nhân viên phân tích. Ví dụ như, năm 1970, công ty S & P có 30 nhân viên phân tích trong các ngành công nghiệp, thì đến năm 1995, họ đã có 800 nhà phân tích và toàn bộ nhân viên là 1200 người. Công ty Moody’s cũng có sự phát triển nhanh tương tự. Đến năm 1995, họ đã có 560 nhà phân tích với tổng số nhân viên 1700 người. Đây chính là một trong những minh chứng rõ ràng nhất về sự phát triển của các công ty xếp hạng tín dụng.
Năm 2000, Moody’s đã xếp hạng cho 20000 nhà phát hành tại Mỹ, của cả Chính phủ và các công ty, 1200 nhà phát hành không phải tại Mỹ. Tổng số nợ mà Moody’s xếp hạng trị giá khoảng 5000 tỷ USD. Từ những năm 70, ba công ty xếp hạng tín dụng của Mỹ là Moody’s, S & P và Fitch’s đã mở rộng hoạt động của mình tới các nước châu Âu, châu Á và châu Mỹ Latinh. Năm 1995, S & P đã xếp hạng khoảng 30000 loại trái phiếu và các cổ phiếu ưu đãi được phát hành bởi hơn 4000 công ty trên khắp thế giới. Công ty này còn xếp hạng cho khoảng 15000 loại trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu chính phủ, các tổ chức nươc ngoài và các tổ chức xuyên quốc gia. Ngoài ra, rất nhiều quốc gia đã lần lượt thành lập các công ty xếp hạng tín dụng của nước mình. Cũng từ thời điểm này, ngoài việc xếp hạng tín dụng đối với các chứng khoán thông thường, các công ty xếp hạng tín dụng còn xếp hạng tín dụng cho các quốc gia và các định chế tài chính xuyên quốc gia.
Cho đến nay xếp hạng tín dụng đã được thừa nhận rộng rãi ở thị trường vốn quốc tế. Đặc biệt, các nhà đầu tư có tổ chức ở các thị trường phát triển thường đòi hỏi phải có xếp hạng tín dụng để họ có thể mua các trái phiếu quốc tế. Xuất phát từ nhu cầu này, các tổ chức xếp hạng tín dụng tầm cỡ quốc tế đã thiết lập các chi nhánh của mình ở thị trường mới nổi, nơi đang rất cần thiết đối với các tổ chức phát hành chứng khoán quốc tế của các công ty đang thường trú tại đó.
Trong xu thế toàn cầu hoá, cùng với nhu cầu phát triển của nền kinh tế thế giới. Chính phủ của các quốc gia công nghiệp hoá mới NICs và các nước đang phát triển ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của các cơ quan xếp hạng tín dụng đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu mới xuất hiện ở đây tương đối phát triển, phần lớn là do Chính phủ tại các nước này đã có những phản ứng tích cực đối với sự phát triển của thị trường tài chính, bao gồm cả việc thành lập các tổ chức xếp hạng tín dụng.Năm 1993, diễn đàn của các tổ chức xếp hạng tín dụng ASEAN(AFCRA) đã được thành lập như là tiền đề cho việc thúc đẩy các tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức xếp hạng tín dụng của ASEAN. Năm nước ASEAN đã thành lâp tổ chức xếp hạng tín dụng của mình, Philipins (năm 1982), Malaysia(năm 1991), Thái Lan(năm 1993), Việt nam(1992). Mục tiêu của AFCRA là xác định quy tắc hoạt động trong khu vực, thúc đẩy sự hợp tác và hỗ trợ giữa các cơ quan thành viên, chia sẻ thông tin và nhiệp vụ chuyên môn thông qua các chương tr