Đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá: tính tất yếu và đặc trưng của nó

Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước là trung tâm, là trụ cột của hệ thống chính trị; nó có tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới tất cảc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có tiền lệ gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước pháp quyền với tư cách là một kiểu nhà nước đã thể hiện được tính tiến bộ của mình so với các kiểu nhà nước độc tài, chuyên chế Ở nước ta, từ sau Cách mạng Tháng Tám( năm 1945), trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải hóng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm, lãnh đạo việc củng cố từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ nhĩa. Đặc biệt, từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam và Hiến pháp càng khẳng định rõ nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 có sửa đổi đã khẳng định: “ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

doc32 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 13012 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá: tính tất yếu và đặc trưng của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá- hiệnđại hoá: tính tất yếu và đặc trưng của nó Sinh viên : Đặng Anh Dũng Lớp : K48.A Gv h d : Ts Lưu Minh Văn Hà nội 2/ 2006 Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá- hiệnđại hoá: tính tất yếu và đặc trưng của nó (31 trang) PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Phạm vi nghiên cứu 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu NỘI DUNG CHƯƠNG I: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Khái niệm Nhà nước pháp quyền Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Ở nước ta hiện nay Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội và văn ho Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội hiện đại CHƯƠNG II: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CĂN BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp- Pháp luật; quản lý xã hội bằng pháp luật Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa KẾT LUẬN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước là trung tâm, là trụ cột của hệ thống chính trị; nó có tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới tất cảc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền đã có tiền lệ gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước pháp quyền với tư cách là một kiểu nhà nước đã thể hiện được tính tiến bộ của mình so với các kiểu nhà nước độc tài, chuyên chế… Ở nước ta, từ sau Cách mạng Tháng Tám( năm 1945), trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải hóng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm, lãnh đạo việc củng cố từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ nhĩa. Đặc biệt, từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam và Hiến pháp càng khẳng định rõ nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 có sửa đổi đã khẳng định: “ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay đang là vấn đề có tính tất yếu, khách quan. Nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực( kinh tế, chính trị, pháp lý…). Tuy nhiên, dưới góc độ Triết học, việc lý giải tính tất yếu và những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Viêt Nam cần phải được tiếp tục nghiên cứu nhằm bổ sung những luận cứ khoa học cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chính yêu cầu này đã thôi thúc người viết lựa chọn đề tài “ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước: Tính tất yếu và đặc trưng của nó” làm báo cáo khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. ở Việt Nam, từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đến nay, thực hiện đường lối đổi mới, với việc thừa nhận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực. Có thể liệt kê ra một loạt các công trình liên quan đến vấn đề này như: “Đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới” của Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên; “Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công cuộc đổi mới ở hiện nay ở nước ta” của Lê Sỹ Dược; “ Lý luận chung về nhà nước và pháp luật” của Trần Ngọc Đường; “ Xây dựng nhà nước và pháp luật, một số vấn suy nghĩ về xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta” của Nguyễn Duy Quý; “ Tìm hiểu về Nhà nước và pháp quyền” của giáo sư Đào Trí Úc… Qua các công trình trên đã trình bày những khía cạnh khác nhau của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đề ra những phương hướng cho việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo cáo này là sự bổ sung thêm một số vấn đề liên quan đến tính tất yếu và những đặc trưng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu. Trong báo cáo này, chúng tôi sẽ chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong thời kỳ Công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu. + Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. + Những đặc trưng, nội dung chủ yếu của nhà nước pháp quyền ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. + Cơ sở lý luận: Việc giải quyết những vấn đề được đề cập trong báo cáo này về mặt lý luận chúng tôi dựa trên cơ sở quan niệm của Triết học Mác- Lênin về nhà nước và kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu. + Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. NỘI DUNG Chương I: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Khái niệm nhà nước pháp quyền. “Nhà nước pháp quyền” có nguồn gốc từ thuật ngữ “ The Rule of law”( có nghĩa là Pháp quyền) được hiểu là học thuyết về tổ chức và hoạt động của nhà nước. Sự ra đời của nó gắn với cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chống xu hướng chuyên chế trong lịch sử nhân loại. Cả về lý luận và thực tiễn, vấn đề nhà nước pháp quyền gắn chặt với cuộc cách mạng tư sản ở các nước phương Tây. Do vậy, cần phải khẳng định tư tưởng về Nhà nước pháp quyền, lý luận về Nhà nước pháp quyền là thành tựu vĩ đại trong lịch sử tư tưởng nhân loại, những giá trị của nó được khẳng định như là những giá trị phổ biến trong sự phát triển của nhân loại, ít ra là cho đến ngày nay. Theo tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng trong bài “ Nguồn cội của Pháp quyền” đăng trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 16-8-2004 thì: “ Về mặt khái niệm, Pháp quyền cũng như Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo vệ. Hiến pháp là các công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Vì vậy Hiến pháp được coi là linh hồn của pháp quyền và là bản khế ước quan trọng nhất”. Còn Nguyễn Khắc Viện trong cuốn “ Từ điển Xã hội học” thì cho rằng: “Nhà nước pháp quyền là một loại hình nhà nước được xây dựng trên cơ sở đối lập đối lập với nhà nước độc tài, chuyên chế, cai trị. Thuật ngữ “ Nhà nước pháp quyền” được xác định trong luật học nước Đức vào đầu thế kỷ XIX( tiếng Đức là Rechtsstaat) và sau đó ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc biệt các trào lưu dân chủ hoá có tính phổ biến ngày nay. Nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với nhà nước cai trị bằng pháp luật. Nhà nước độc tài, chuyên chế trong lịch sử cũng cai trị bằng pháp luật. Vì rằng có những hệ thống pháp luật không bảo vệ quyền tự do, bình đẳng giữa con người với con người . Ngoài đòi hỏi trên, nhà nước còn đòi hỏi phải được xây dựng trên cơ sở “ Xã hội công dân”, nó là một bộ phận của xã hội công dân. Điều kiện đầu tiên của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm các quyền tự do của công dân bằng các quy định của pháp luật rành mạch, không ai được vi phạm. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật, pháp quyền là là thước đo( chuẩn mực) của tự do. Nhà nước pháp quyền được xây dựng theo những nguyên tắc dân chủ. Các cơ quan quyền lực nhà nước( về lập pháp , hành pháp, tư pháp) được bầu cử một cách tự do với sự tham gia trực tiếp của mọi công dân để có thể thực hiện một cách đầy đủ ý chí của họ. Kinh nghiệm cho thấy các quyền lực đó phải được tổ chức như thế nào để mỗi quyền có tính độc lập thực sự. Tất cả những người được cử vào cơ quan quyền lực nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhà nước pháp quyền là nhà nước có nhiều khả năng nhất trong việc chống lại xu hướng độc quyền về quyền lực và xu hướng quan liêu hoá bộ máy quyền lực” Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trần Đức Lương trong bài viết “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ thường xuyên cuả Đảng, nhà nước và nhân dân ta”, cũng đưa ra một quan niệm về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền, nói một cách khác là hệ thống các quan điểm đề cao pháp luât, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, nhằm thực hiện các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện, lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, đảm bảo hiệu lực quản lý của nhà nước. Đó là nhà nước mà tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hành động của mình. Mọi công dân đều có trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật; phải sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật”. Như vậy, trên thực tế có thể thấy hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Nhà nước pháp quyền, điều đó cũng đồng nghĩa vơi việc chưa có một định nghĩa chung về Nhà nước pháp quyền. Thay vào đó, người ta thường thông qua việc mô tả những giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền để trả lời câu hỏi: “ Nhà nước pháp quyền là gì?”. Cách lập luận này không phải không có ý nghĩa. Vậy những giá trị đó là gì ? Nói tới Nhà nước pháp quyền, thì nguyên tắc bản chất của nó là: + Thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; + Tôn trọng, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người; + Bảo đảm những điều kiện thiết yếu cho một nền dân chủ; + Pháp luật giữ địa vị tối thượng đối với nhà nước và xã hội; + Được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, dùng quyền lực để kiểm tra và giám sát quyền lực… Nhà nước pháp quyền cho đến nay đã trở thành một giá trị của văn minh nhân loại mà mọi nước đều hướng tới không phân biệt chế độ chính trị. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một tất yếu, là nhiệm vụ cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước . 2. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu là xây dựng một xã hội “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”… 2.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng: trong Kiến trúc thượng tầng của xã hội, nhà nước là yếu tố là cơ bản nhất; nó luôn luôn phải chịu sự tác động, quy định của cơ sở hạ tầng, mà cơ sở hạ tầng chính là các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Nói cách khác, chính yếu tố kinh tế là cái quyết định, chi phối việc xây dựng nhà nước. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với nhà nước hay lựa chọn hình thức nhà nước thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế không phải là ý muốn chủ quan của giai cấp cầm quyền, mà là do những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể quy định. “ Hình thái sản xuất đều sản sinh ra từ quan hệ pháp lý, những hình thức pháp lý,…riêng của nó” Mô hình kinh tế ở nước ta hiện nay đã được xác định trong văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam và các văn bản pháp lý khác là: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, xuất phát điểm của công cuộc đổi mới ở nước ta rất thấp, đó là một nền sản xuất nhỏ ở trình độ thấp, trải qua những năm tháng bị chiến tranh tàn phá, cộng thêm vào đó là một thời kỳ dài do nhận thức không đúng về chủ nghĩa xã hội ( nóng vội, chủ quan duy ý chí…), chúng ta đã duy trì mô hình quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, mang nặng tính mệnh lệnh hành chính trong quản lý… Điều đó đã không đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội nói chung cũng như yêu cầu phát triển kinh tế nói riêng. Chẳng hạn, trong một thời gian dài chúng ta chỉ thừa nhận và tập trung phát triển hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, còn các thành phần khác không được chú trọng. Điều đó đã dẫn tới sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, đất nước lâm vào khủng hoảng. Một yêu cầu cấp bách đặt ra khi bước vào công cuộc đổi mới là muốn phát triển lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải xây dựng mô hình quản lý nhà nước được luật pháp hoá, trên cơ sở tối thượng của luật pháp, các quyền chính đáng, hợp pháp của người dân được tôn trọng, bảo đảm. Hơn hai mươi năm đổi mới đã chứng minh rằng, sự phát triển của nền kinh tế sẽ là không thể nếu thiếu Nhà nước pháp quyền. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang thực hiện qúa trình chuyển đổi từ tập trung bao cấp với hai thành phần kinh tế thuần khiết (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) sang nền kinh tế nhiều thành phần (sáu thành phần) dưới sự điều tiết, quản lý của nhà nước; chủ động hội nhập với kinh tế quốc tế và khu vực. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại. Các thành phần này bình đẳng về mặt pháp lý. Chúng khác nhau về hình thức sở hữu; độc lập tự chủ về vốn và lựa chọn mục tiêu sản xuất kinh doanh. Tất nhiên, tính tự chủ không có nghĩa là các thành phần này không lệ thuộc lẫn nhau. Trái lại, chúng ràng buộc nhau, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau. Ở đây tính tự chịu trách nhiệm, chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế rất cao. Lợi ích của các chủ thể kinh tế được thừa nhận, bảo vệ bằng pháp luật và đó thực sự là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội những năm qua. Các nhà sản xuất, kinh doanh hoạt động tuân theo quy luật của thị trường, họ chủ động nắm bắt thông tin từ thị trường và tự điều chỉnh hơn là từ các chỉ thị, mệnh lệnh hành chính (phi kinh tế) của nhà nước. Các thành phần kinh tế, các nhà sản xuất kinh doanh đều tự do, bình đẳng, không có đặc quyền, đặc lợi về lợi ích. Chính điều đó cũng đòi hỏi tính công khai, dân chủ và bình đẳng trước pháp luật. Sự thiên vị, làm trái pháp luật từ phía cơ quan hay viên chức nhà nước cũng đều làm mất ổn định và an toàn của môi trường cạnh tranh. Đa dạng trong sở hữu, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, bình đẳng trong cạnh tranh, tự do trong liên kết kinh tế… là những nguyên tắc cơ bản của thị trường. Pháp luật vừa là phương tiện để pháp lý hoá quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế. Nhà nước quản lý bằng pháp luật là nhu cầu khách quan của việc giải quyết các quan hệ kinh tế. Kinh tế thị trường tồn tại trên cơ sở quy luật giá trị và lợi nhuận, nó không ngừng mở rộng về quy mô ở cả trong nước và nước ngoài. Điều này đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh không những phải am hiểu hệ thống pháp luật trong nước mà còn phải biết đến luật pháp các nước và luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, do chạy theo lợi nhuận mà các nhà sản xuất kinh doanh luôn có xu hướng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để kiếm lợi nhiều khi dẫn đến vi phạm nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể kinh tế, vi phạm các giá trị xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu phải xây dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh, dễ phổ biến, có thể áp dụng rõ ràng, minh bạch đối với mọi người là điều rất quan trọng để nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước. Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm những mục đích tốt đẹp: lấy phát triển kinh tế vì lợi ích của nhân dân lao động; lấy tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với công bằng xã hội; mọi người đều được khuyến khích làm giàu cho cá nhân, cho tập thể và cho đất nước một cách hợp pháp; hạn chế tối đa sự phân hoá giàu nghèo; thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa và xoá đói giảm nghèo… Đây là nền kinh tế không lấy lợi nhuận ích kỷ làm mục tiêu, mà phát triển kinh tế chỉ là phương tiện để đạt tới tiến bộ, công bằng xã hội và hạnh phúc của nhân dân - đó là những định hướng phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới, các thành phần kinh tế đều đang trong quá trình hình thành và phát triển: kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, các thành phần kinh tế khác đang trong quá trình hình thành. Nhà nước ngay từ đầu đã chủ động thực hiện vai trò định hướng, quản lý điều tiết các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất, huy động được tiềm lực của cả xã hội trong việc phát triển kinh tế. Về cơ cấu kinh tế, sự đa dạng của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối (nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, giải quyết tốt các vấn đề xã hội có liên quan), nhằm định hướng các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong quá trình xây dựng chưa đồng bộ, nhiều yếu tố cấu thành của thị trường còn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát, sơ khai. Điểm xuất phát của nó là sản xuất nhỏ, thủ công; tự cấp tự túc còn phổ biến, hậu quả do chiến tranh và thời kỳ thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung kéo dài… Nền kinh tế thị trường với những đặc trưng như vậy đòi hỏi nhà nước phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô. “ Nhà nước quản lý thị trường băng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ, đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước” Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một quá trình chuyển biến có tính cách mạng từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế hiện đại có cơ cấu hợp lý. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá vừa là mục tiêu và cũng đồng thời tạo ra nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững cho toàn bộ nền kinh tế. Mục tiêu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đã được Đảng ta xác định rõ: “ Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ…đồng thời có tiềm lực đủ mạnh, có tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, tài chính, môi trường… Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đó khác căn bản với công nghiệp hoá truyền thống qua các cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tư bản chủ nghĩa về cả mục tiêu và phương pháp, nhưng lại có cùng nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền- tức là nhu cầu xây dựng và quản lý xã hội bằng pháp luật. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là quá trìn