Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế cơ sở, chuyên sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất làm nguồn tích luỹ cho cơ sở, đồng thời cung cấp vật chất cho xã hội, giải quyết nhu cầu sống của người lao động và nguồn vốn tập trung cho nhà nước.
Trong suốt mấy thập kỷ qua đất nước ta phải tồn tại trong cơ chế bao cấp, bộ máy quản lý của chúng ta đã góp phần không nhỏ trong việc kéo lùi sự phát triển kinh tế của nước nhà.
59 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế cơ sở, chuyên sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất làm nguồn tích luỹ cho cơ sở, đồng thời cung cấp vật chất cho xã hội, giải quyết nhu cầu sống của người lao động và nguồn vốn tập trung cho nhà nước.
Trong suốt mấy thập kỷ qua đất nước ta phải tồn tại trong cơ chế bao cấp, bộ máy quản lý của chúng ta đã góp phần không nhỏ trong việc kéo lùi sự phát triển kinh tế của nước nhà. Do đó, trong nền kinh tế thị trường hiện nay để đứng vững và phát triển, việc đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, trình độ và năng lực là vấn đề hết sức quan trọng và then chốt góp phần Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Qua quá trình nghiên cứu thực tế kết hợp với những kiến thức cơ bản về kinh tế thu lượm được em thấy: cơ cấu bộ máy quản lý được tổ chức hợp lý và phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nó góp phần không nhỏ vào việc thực hiện các mục tiêu cơ bản đặt ra. Đó là lý do em chon đề tài : “Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp”. Nội dung bao gồm 3 phần:
Phần I: Củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phần II: Thực trạng bộ máy quản lý ở công ty cao su sao vàng.
Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý ở Công ty Cao su sao vàng.
Phần I
Củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
I-/ Một số quan niệm về quản lý doanh nghiệp.
1-/ Khái niệm.
Ngày nay, các nhà quản lý không chỉ am hiểu kiến thức nghiệp vụ chuyên môn mà còn am hiểu về lĩnh vực quản lý, cách thức tổ chức sao cho có hiệu quả nhất. Do đó có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý nhưng cần thiết quy nạp về một số lĩnh vực nhất định.
a- Nếu theo lĩnh vực sản xuất:
Quản lý là quá trình tính toán, lựa chọn các biện pháp để chỉ huy, phối hợp và điều hành quá trình sản xuất kinh doanh bằng các công cụ quản lý như: kế hoạch, định mức, thống kê, kế toán, phân tích kinh doanh và thông tin kinh tế để sản xuất đáp ứng được ba yêu cầu sau:
- Yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả và thời điểm
- Phải đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi
- Tôn trọng pháp luật của nhà nước
b- Nếu theo lĩnh vực kinh doanh
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm duy trì tính trồi của hệ thống để đưa hệ thống đến một mục tiêu đã định trong bối cảnh môi trường biến động.
Tuy nhiên quản lý doanh nghiệp cũng có thể hiểu là quá trình vận dụng những quy luật kinh tế, quy luật tự nhiên trong viêc lựa chọn và xác định những biện pháp kinh tế - chính trị - xã hội - tổ chức - kỹ thuật để tác động đến tập thể người lao động. Đồng thời thông qua họ mà tác động đến các yếu tố vật chất của sản xuất kinh doanh. Song dù quan niệm nào thì mục đích của quản lý cũng phải đạt được đó là:
- Sản xuất kinh doanh có lãi
- Đề ra các biện pháp gắn chặt giữa quyền lợi với trách nhiệm người lao động với nhau
- Xây dựng được cơ chế để chuyên môn hoá các hình thức sở hữu từ những ưu thế khác nhau thành hình thức sở hữu của chính bản thân mình.
2-/ Phân loại chức năng quản lý doanh nghiệp
Một doanh nghiệp hoạt động với nhiều nội dung, hình thức cũng như cách tiếp cận khác nhau, nhưng cần thiết phải quản lý.
Các nhà thực tiễn cùng giới khoa học đều có thể tìm kiếm đến cùng có chung một tiếng nói. Hoạt động quản lý đó được gọi là các chức năng quản lý.
Vậy chức năng quản lý là những hoạt động riêng biệt của lao động quản lý, nó thể hiện những phương hướng tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý.
Việc xác định đúng đắn những chức năng quản lý là tiền đề cần thiết và khách quan để quản lý doanh nghiệp được tốt hơn. Do đó quá trình phân loại chức năng quản lý của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận và thực tiễn. Để tổ chức bộ máyquản lý doanh nghiệp theo hướng chuyên tinh, gọn nhẹ và có hiệu lực cần phải phân tích sự phù hợp giữa cơ cấu bộ máy quản lý với những chức năng quản lý.
Chức năng quản lý đặc trưng cho nội dung lao động quản lý. Do đó sự phát triển của chức năng quản lý phụ thuộc vào sự đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nói chung, chế độ quản lý kinh doanh nói riêng. Có hai cách phân loại chức năng quản lý
a. Theo nội dung của quá trình quản lý:
Theo H . Fayol (1841 -1952) quản lý bao gồm:
- Dự kiến: “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: sản xuất kinh doanh cái gì? bán cho ai? sản xuất kinh doanh bằng cách nào? với nguồn tài chính nào?”
- Tổ chức: “Tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những gì cho hoạt động của nó”.
- Phối hợp: “Là làm cho đồng điệu giữa tất cả những hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo ra sự nhịp nhàng và có hiệu quả”.
- Chỉ huy: “cơ chế xã hội đã được xây dựng, bây giờ chỉ việc làm cho nó hoạt động, đó là nhiệm vụ của chỉ huy”.
- Kiểm tra: “Kiểm tra thực chất là duyệt lại, xem tất cả có được tiến hành phù hợp chương trình đã định với những mệnh lệnh đã ban bố và những nguyên lý đã thừa nhận”.
b- Theo mối quan hệ trực tiếp với lĩnh vực hoạt động xản xuất kinh doanh.
Chức năng quản lý gồm:
- Chức năng kỹ thuật: gồm tất cả các công việc, trang thiết bị, phương tiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chức năng kế hoạch thương mại: gồm những việc liên quan đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng các loại kế hoạch chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng các loại kế hoạch sản xuất kinh doanh, tìm kiếm, khai thác thị trường, ký kết hợp đồng kinh tế, quảng cáo.
- Chức năng dân sự: gồm công tác tuyển dụng, bố trí, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỹ thuật, định mức lao động, tiền lương, tiền thưởng đối với nhân viên của doanh nghiệp.
- Chức năng tài chính: gồm các công tác tạo vốn, quản lý các loại vốn và quỹ của doanh nghiệp, hạch toán kế toán, thống kê, kiểm tra và phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chức năng hành chính pháp chế và bảo vệ doanh nghiệp
- Chức năng tổ chức đời sống tập thể và các hoạt động xã hội: Đó là việc tổ chức ăn ở đi lại của cán bộ công nhân viên, các hoạt động văn hoá thể thao và các hoạt động xã hội khác.
Qua hai cách phân loại trên kết hợp với nhau làm cho quá trình quản lý được hoàn chỉnh, có hiệu lực, đồng thời có sự phân công rõ ràng và chuyên môn hoá một cách hợp lý. Việc phân loại theo chức năng là mục đích đảm bảo quán triệt các yêu cầu của khoa học quản lý, nó đảm bảo cho bất kỳ một hoạt động quản lý nào cũng đều được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ. Do đó, là cơ sở phân tích đánh giá tình hình quản lý tại một doanh nghiệp để từ đó tìm ra cách tháo gỡ.
3-/ Phân loại theo lĩnh vực quản lý doanh nghiệp
Lĩnh vực quản lý trong doanh nghiệp được hiểu như các hoạt động quản lý khi được sắp xếp trong một bộ phận mà ở đó có người chỉ huy liên quan đến việc ra các quyết định quản lý. Nếu các chức năng quản lý là các hoạt động trong một quá trình quản lý thì các lĩnh vực quản lý là các tổ chức để thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể gắn với quá trình kinh doanh của doanhnghiệp.
Lĩnh vực quản lý được phân định phụ thuộc vào nhiều yếu tố như truyền thống quản lý, các yếu tố xã hội và cơ chế kinh tế, quy mô cũng như đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của doanh nghiệp. Đồng thời nó gắn liền với mỗi quốc gia, mỗi vùng cụ thể và sự tiến bộ về nhận thức khoa học quản lý. Linh vực quản lý doanh nghiệp bao gồm:
a- Lĩnh vực vật tư:
Nhiệm vụ: phát hiện nhu cầu vật tư, tính toán vật tư tồn kho, mua sắm vật tư, nhập kho và bảo quản, cấp phát vật tư
b- Lĩnh vực sản xuất:
Là toàn bộ các hoạt động có tính chất công nghiệp trên cơ sở phối hợp các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động đã có thể chế biến các sản phẩm hàng hoá và thực hiện các dịch vụ.
Nhiệm vụ của lĩnh vực này là:
-Thu thập các thông tin về thị trường
-Hoạch định chính sách sản phẩm
-Hoạch định chính sách phân phối
-Hoạch định chính sách hỗ trợ tiêu thụ
c- Lĩnh vực marketing có nhiệm vụ
-Thu thập các thông tin về thị trường
-Hoạch định chính sách sản phẩm
-Hoạch định chính sách giá cả
-Hoạch định chính sách phân phối
-Hoạch định sách hỗ trợ tiêu thụ
d- Lĩnh vực nhân sự có nhiệm vụ
-Lập kế hoạch nhân sự
-Tuyển dụng nhân sự
-Bố trí nhân sự
-Đánh giá nhân sự
-Phát triển nhân sự (lãnh đạo bồi dưỡng đề bạt), thù lao, quản lý nhân sự thông qua hồ sơ dữ liệu nhân sự, qua hệ thống hoạt động của nhân viên và hỗ trợ đời sống.
e-Lĩnh vực tài chính kế toán
-Lĩnh vực tài chính có nhiệm vụ
+Tạo vốn
+Sử dụng vốn
+Quản lý vốn (chủ yếu là quản lý sự lưu thông thanh toán và các quan hệ tín dụng)
-Lĩnh vực kế toán có nhiệm vụ:
+Kế toán sổ sách
+Tính toán chi phí - kết quả
+Xây dựng các bảng cân đối
+ Tính toán lỗ lãi và các nhiệm vụ khác như: thẩm định kế hoạch, tống kê, kiểm tra việc tính toán, bảo hiểm, thuế
f- Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển có nhiệm vụ
+Thực hiện các nghiên cứu cơ bản
+Nghiên cứu ứng dụng
+Đưa nghiên cứu khoa học vào áp dụng
+Thẩm định hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng
g- Lĩnh vực tổ chức và thông tin
-Lĩnh vực tổ chức thực hiện dự án, phát triển, cải tiến và tổ chức bộ máy doanh nghiệp.
-Lĩnh vực thông tin thường xây dựng kế hoạch về các thông tin liên quan cho doanh nghiệp, đồng thời chọn lọc và xử lý các thông tin, kiểm tra thông tin và giám sát thông tin
h- Lĩnh vực hành chính pháp chế và dịch vụ chung
Lĩnh vực này thực hiện các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp.Tổ chức thực hiện các hoạt động quần chúng trong doanh nghiệp
Mục đích của việc phân loại theo lĩnh vực quản lý là chỉ ra tất cả các lĩnh vực cần phải tổ chức, thực hiện quản trị trong doanh nghiệp, đây là một căn cứ quan trọng để thiết lập bộ máy quản lý doanh nghiệp. Phân loại các lĩnh vực quản lý phải phù hợp với tình hình kinh doanh và là căn cứ để tuyển dụng, bố trí, sử dụng các quản trị viên, là cơ sở phân tích, đánh giá hoạt động trong toàn bộ bộ máy quản lý, thực hiện chế độ trách nhiệm cá nhân, đồng thời là cơ sở điều hành hoạt động quản lý trên phạm vi toàn doanh nghiệp
Tóm lại: Phân loại theo chức năng là sự quán triệt các nguyên lý của khoa học quản lý, là sự tiếp cận đúng đắn vào hoàn cảnh kinh doanh thực tiễn của một doanh nghiệp. Do đó, việc phân loại theo lĩnh vực quản lý có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn, chúng không gạt bỏ nhau mà ngược lại chúng có mối quan hệ trực tiếp hữu cơ với nhau.
4-/ Vai trò của công tác quản lý đối với hoạt động quản trị kinh doanh
Xuất phát từ những quan điểm trên, làm tốt công tác quản lý trong doanh nghiệp và giữ được một vai trò quan trọng, thể hiện:
Quản lý là nhân tố quan trọng trong việc quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Nhờ có quản lý tốt mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạn chế rủi ro ngăn ngừa phá sản và thất nghiệp. Luôn luôn chọn được phương án tối ưu trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời luôn phát huy được quyền chủ động sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và giúp cho các doanh nghiệp luôn duy trì và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, thông qua cơ chế có thái độ đối xử tốt với khách hàng truyền thống, khách hàng tiêu thụ với khối lượng hàng lớn và những khách hàng đến với doanh nghiệp lần đầu. Phương thức thanh toán phải linh hoạt, mềm dẻo.
Nhờ có vai trò của công tác quản lý mới có khả năng giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được phương châm sử dụng phải đi đôi với đào tạo để không ngừng nâng cao năng lực và trình độ của cán bộ quản lý thích ứng với cơ chế thị trường.
II-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý doanh nghiệp.
Công tác quản lý doanh nghiệp phải làm sao mang lại hiệu quả kinh tế xã hội,..., tối ưu phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Nhưng suy cho cùng thì ở đây ta xét đến nhân tố trực tiếp và nhân tố gián tiếp có ảnh hưởng đến công tác quản lý như sau:
1-/ Nhóm nhân tố thuộc đối tượng quản lý
+Tình trạng và trình độ phát triển công nghệ sản xuất của doanh nghiệp
+Tính chất và đặc điểm sản xuất như chủng loại sản phẩm, quy mô sản xuất, loại hình sản xuất.
Tất cả những nhân tố trên đều ảnh hưởng đến nội dung của chức năng quản lý. Thông qua chúng mà ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
2-/ Nhóm nhân tố thuộc lĩnh vực quản lý
+Quan hệ sở hữu tồn tại trong doanh nghiệp
+Mức độ chuyên môn hoá và tập trung các hoạt động quản lý
+Trình độ cơ giới hoá và tập trung trình độ quản lý, trình độ kiến thức, tay nghề của cán bộ quản lý, hiệu suất lao động của họ
+Quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị lãnh đạo, khả năng lãnh đạo đối với người lãnh đạo, đối với các hoạt động của người cấp dưới
+Chính sách đãi ngộ của người cấp dưới đối với đội ngũ cán bộ quản lý
+Cơ chế quản lý của Đảng và nhà nước, sự vận dụng cơ chế này vào hoàn cảnh thực tiễn của doanh nghiêp
III-/ Bộ máy quản lý của doanh nghiệp
1-/ Khái niệm
Bộ máy quản lý là một cơ quan chức năng trong doanh nghiệp (gồm các phòng ban... chức năng) có nhiệm vụ cơ bản giúp giám đốc chỉ huy và điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất
2-/ Yêu cầu của bộ máy quản lý
Mỗi một công việc, một vấn đề dù lớn hay nhỏ, dù đơn giản hay phức tạp, đều phải đặt ra những yêu cầu, tiêu chuẩn thể hiện tính hữu ích của công việc vấn đề đó. Đối vối việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là một quá trình hết sức phức tạp, đòi hỏi rất lớn về nhiều mặt trên cơ sở bắt buộc phải tồn tại và phát triển trong điều kiện vận hành của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nói cách khác, việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải phù hợp với thời đại thì doanh nghiệp mới tồn tại, đồng thời sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Nếu nó còn sơ cứng không phù hợp thì doanh nghiệp không thể đứng vững trong sự biến động không ngừng của cơ chế thị trường, những sai sót trong cơ chế tổ chức không những làm phức tạp thêm mà còn dẫn đến làm giảm năng suất lao động, làm tổn thất kinh tế lãng phí thời gian. Do đó, việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải được thực hiện theo phương hướng ngày càng thích ứng đầy đủ với mục tiêu và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, chủ thể của tổ chức cũng như phù hợp nguyên tắc quản lý xã hội và cơ chế vận hành của nền sản xuất hàng hoá. Vì vậy, nó cần phải có các yêu cầu sau:
a- Tính tối ưu
Giữa các khâu và các cấp quản trị (khâu quản trị phản ánh cách phân chia chức năng quản lý theo chiều ngang còn cấp quản trị thể hiện sự phân chia chức năng quản trị theo chiều dọc). Đều thiết lập những mối quan hệ hợp lý với số lượng cấp quản trị ít nhất trong doanh nghiệp. Cho nên, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý mang tính năng động cao, luôn đi sát và phục vụ sản suất.
b- Tính linh hoạt
Cơ cấu tổ chức quản lý có khả năng thích ứng với bất kỳ tình huống nào xảy ra trong doanh nghiệp cũng như ngoài doanh nghiêp.
c- Tính tin cậy
Cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo tính chính xác của tất cả các thông tin được sử dụng trong doanh nghiệp, nhờ đó đảm bảo sự phối hợp với các hoạt động và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận ngành, của doanh nghiệp.
d- Tính kinh tế
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải sử dụng chi phí quản lý đạt hiệu quả cao nhất.Trong đó, mối tương quan giữa chi phí dự định bỏ ra và thu về kết quả chính là tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này.
e-Thực hiện nguyên tắc chế độ một thủ trưởng
Thủ trưởng có quyền quyết định những vấn đề về kinh tế, kỹ thuật, tổ chức hành chính, đời sống trong phạm vi toàn doanh nghiệp.Thủ trưởng quản lý mọi hoạt động của đơn vị mình được trao trách nhiệm, quyền hạn nhất định và chịu hoàn toàn trách nhiệm về những quyết định của mình. Mọi người trong doanh nghiệp và từng bộ phận phải phục tùng nghiêm chỉnh mệnh lệnh của thủ trưởng. Thực hiện tốt những yêu cầu này và áp dụng vào những cơ cấu tổ chức thì trong mọi điều kiện dù khó khăn hay thuận lợi doanh nghiệp vẫn luôn có cơ cấu tổ chức nhất quán và vững mạnh. Xuất phát từ những yêu cầu và tính chất của nền sản xuất công nghiệp, từ những quyết định, mối quan hệ trong phân công lao động chuyên môn hoá ngày càng cao, sâu sắc tất yếu sẽ dẫn đến hợp tác hoá lao động và bất kì một sự trục trặc nào trong hợp tác sản xuất cũng dẫn đến đình trệ sản xuất, giảm hiệu quả.Vì vậy, bất kì một sự hợp tác nào cũng phải có người chỉ huy thống nhất.
Các chức danh thủ trưởng, vị trí, mối quan hệ trong các chức danh này trong cơ cấu tổ chức bộ máy.
TT
Chức danh thủ trưởng
Vị trí từng chức danh trong DN
Phạm vi phát
huy tác dụng
Người giúp việc thủ trưởng
Người dưới quyền
1
Giám đốc
Thủ trưởng cao nhất DN
Toàn bộ DN
Các phó GĐ
Mọi người trong DN
2
Quản đốc
Thủ trưởng cao nhất PX
Toàn bộ PX
Các phó GĐ
Mọi người
trong PX
3
Đốc công
Thủ trưởng cao nhất trong ca
Toàn ca làm việc
Kông
Mọi người trong cac
4
Tổ trưởng công tác
Thủ trưởng cao nhất trong tổ
Toàn tổ
Tổ phó
Mọi người trong tổ
5
Thủ trưởng các phòng ban
Thủ trưởng cao nhất trong phòng ban
Toàn phòng ban
Phó phòng
Mọi người trong phòng
3-/ Các kiểu cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của sản xuất đã hình thành nhiều cơ cấu tổ chức quản lý. Mỗi cơ cấu chứa đựng những đặc điểm, ưu nhược điểm khác nhau và được áp dụng trong những điều kiện cụ thể nhất định.
a- Cơ cấu tổ chức trực tuyến
Đây là cơ cấu tổ chức đơn giản nhất trong đó có một cấp trên và một cấp dưới. Toàn bộ vấn đề được giải quyết theo một kênh liên hệ đường. Cấp lãnh đạo doanh nghiệp trực tuyến điều hành và chịu trách nhiệm về sự tồn tại của doanh nghiệp.
Cơ cấu trực tuyến được áp dụng cuối thế kỷ XX, chủ yếu được áp dụng ở doanh nghiệp nhỏ, sản xuất với sản phẩm khá phức tạp, mang tính chất sản phẩm không liên tục.
Người lãnh đạo Doanh nghiệp
Người lãnh đạo tuyến 1
Người lãnh đạo tuyến 2
A1
A2
An
B1
B2
Bn
Ngày nay, kiểu cơ cấu này vẫn được áp dụng, đặc biệt đối với tổ sản xuất. Đặc điểm cơ bản của cơ cấu tổ chức quản lý theo trực tuyến là người lãnh đạo thực hiện tất cả các chức năng quản lý, các mối quan hệ theo đường thẳng thì người thừa hành mệnh lệnh qua một cấp trên trực tiếp và chỉ thi hành mệnh lệnh của người đó mà thôi.
Với những đặc điểm đó, còn có các nhược điểm đó là người lãnh đạo phải có kiến thức toàn diện, tổng hợp, hạn chế việc sử dụng các chuyên gia về mặt quản lý. Khi cần phối hợp, hiệp tác giữa hai đơn vị hoặc cá nhân ngang quyền thuộc các tuyến khác nhau thì việc báo cáo thông tin phải đi đường vòng theo kênh liên hệ đã quy định.
b- Cơ cấu chức năng
Cơ cấu chức năng được áp dụng với chế độ đốc công. Phạm vi ứng dụng của nó được mở ra phù hợp với khối lượng công tác ngày càng lớn.
Nhiệm vụ quản lý được phân chia cho các đơn vị riêng biệt theo các chức năng quản lý và hình thành nên những người lãnh đạo được chuyên môn hoá chỉ đảm nhận một chức năng nhất định. Những người thừa hành cấp dưới nhận mệnh lệnh không chỉ từ người lãnh đạo doanh nghiệp mà cả những người lãnh đạo các chức năng khác nhau.
Cơ cấu này có ưu điểm thu hút được nhiều chuyên gia vào công việc lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm bớt gánh nặng về quản lý cho người lãnh đạo doanh nghiệp.
Nhược điểm chủ yếu của cơ cấu này là người lãnh đạo doanh nghiệp khó có thể phối hợp được tất cả các mệnh lệnh của họ dẫn đến tình trạng người thừa hành trong một lúc có thể nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí các mệnh lệnh trái ngược nhau.
Người lãnh đạo Doanh nghiệp
Người lãnh đạo chức năng A
Người lãnh đạo chức năng B
1
2
3
4
c- Cơ cấu trực tuyến - chức năng
Để khắc phục cơ cấu trực tuyến và cơ cấu chức năng về những nhược điểm của nó. Hiện nay, cơ cấu liên hợp, thực tuyến chức năng được áp dụng rộng rãi trong mọi doanh nghiệp.
Theo cơ cấu này người lãnh đạo doanh nghiệp, dưới sự giúp đỡ của người lãnh đạo để chuẩn bị các chức năng, các quyết định hướng dẫn và kiểm tra thực hiện quyết định. Nói chung người lãnh đạo được sự hỗ trợ giúp sức của các phòng chức năng, các chuyên gia, các hội đồng tư vấn trong việc nghiên cứu, suy nghĩ bàn bạc tìm ra những g