Việt Nam là mộ t trong những nước xu ất khẩu cà ph ê lớn nh ất trên th ế giới,
kim n gạch xuất kh ẩu cà ph ê h àn g năm ch iếm tỷ trọ ng đán g kể trong GDP của quố c
gia. Th ế nhưng h iện na y ngành cà phê Vi ệt Nam vẫn tồn tại những p hươn g thức
kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp đ ể có th ể cạnh tranh với các nước trên th ế
giới, n ền sản xu ất trong nước phụ thuộc vào biến độ ng giá cà phê thế giới mà giá
n ày được người mua là các doanh ngh iệp ch ế b iến cà ph ê n ước ngoài “sắp đặt sẵn ”
cho doanh nghiệp xu ất khẩu cà phê nư ớc t a. Để có thể kh ắc phục điểm y ếu và nâng
cao khả năng chủ độ ng trong sản xuất, ổn định lợi nhuận khôn g chỉ của các doanh
n ghiệp kinh doanh cà ph ê mà còn của người nôn g dân th ì việc xâ y dự ng và ph át
triển th ị trường giao sau cà phê là một trong nhữn g giải ph áp khả th i và hữu hiệu
trong việc phòn g n gừa rủi ro b iến động giá.
74 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và phát triển thị trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới,
kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc
gia. Thế nhưng hiện nay ngành cà phê Việt Nam vẫn tồn tại những phương thức
kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế
giới, nền sản xuất trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá
này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn”
cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng
cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh
nghiệp kinh doanh cà phê mà còn của người nông dân thì việc xây dựng và phát
triển thị trường giao sau cà phê là một trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu
trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô, tìm hiểu những
tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra
những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động
biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ các tài liệu,
sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ
phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến
động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt
động của thị trường giao sau.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam,
đề tài đề xuất một số giải pháp khả thi trên nền tảng xây dựng và phát triển thị
trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này.
2
5. Kết cấu của luận văn
§ Lời mở đầu.
§ Chương 1: Tìm hiểu những rủi ro gặp phải do biến động giá đến sản xuất
nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu về vai trò của thị trường giao sau.
§ Chương 2: Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng
ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam.
§ Chương 3: Đề xuất các giải pháp liên quan đến xây dựng và phát triển thị
trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê.
§ Kết luận
3
CHƯƠNG I: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀ VAI TRÒ CỦA
THỊ TRƯỜNG GIAO SAU
1.1. Rủi ro biến động giá cả đối với người sản xuất (nông nghiệp)
Đối với người sản xuất, rủi ro biến động giá cả là loại rủi ro đáng lo ngại và
ảnh hưởng nhiều nhất đến thu nhập của họ. Rủi ro biến động giá cả hàng hóa xuất
hiện khi giá sản phẩm xuống thấp hoặc giá đầu vào tăng sau khi người sản xuất đã
quyết định đầu tư. Rủi ro do biến động giá hầu như xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh
doanh bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Đối với người nông dân, khi họ bắt đầu gieo trồng thì tất cả đều hy vọng đến
khi thu hoạch sẽ có sản lượng cao, chất lượng tốt và đặc biệt là giá bán ra bằng hay
tốt hơn thời vụ trước. Không ai muốn tiếp tục nuôi trồng các cây con mà giá cả đã
liên tục rớt trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng sản phẩm lại
chịu ảnh hưởng nhiều bởi biến động giá theo quan hệ cung cầu cũng như ảnh
hưởng bởi giá cả đầu vào và các yếu tố bất lợi khác như thời tiết, sản lượng của các
nước có diện tích canh tác lớn... Ở các nước đang phát triển, người nông dân luôn
trong thế bị động, không biết trước đầu ra của sản phẩm, cũng như giá cả và nhu
cầu của thị trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và phụ thuộc nhiều
vào hoạt động thu mua của các thương lái. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ
nông sản theo tập quán lâu đời. Họ dốc vốn, công sức đầu tư trong nhiều tháng,
thậm chí nhiều năm để làm ra một loại hàng hóa chưa biết chắc giá cả, không rõ sẽ
bán cho ai. Vì vậy, cả khi người nông dân đã thu hoạch xong lúa, cà phê, hạt tiêu,
thuốc lá, ngô, đậu tương, cao su… thì cũng vẫn gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc
đó giá thị trường đang xuống mà chưa bán hết được hàng.
Bên cạnh đó còn có yếu tố do con người gây nên đó là tình trạng sản xuất
theo phong trào không tính đến giá cả sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới.
Người nông dân đứng trước một mâu thuẫn là khi được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ,
mất mùa thì giá cao nhưng lại không có hàng để bán. Giá đầu vào có xu hướng ngày
4
càng tăng trong khi giá nông sản đầu ra lên xuống thất thường. Ở trường hợp nào đi
chăng nữa thì người nông dân luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp chế biến, nhà xuất khẩu nông sản cũng sẽ gặp rủi
ro tương tự như người nông dân nếu như họ thu mua nông sản, thu mua nguyên
liệu, chế biến rồi lưu kho để tiêu thụ hoặc xuất khẩu mà không có hợp đồng mua
trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì lúc mua giá có thể đang
lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì
lúc bán giá có thể đang xuống) thì khi giá cả mặt hàng đó biến động, có thể đẩy
doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng
bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng
tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước của
giá hàng hóa không những có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà còn ảnh
hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó
xảy ra trong một thời gian dài.
Như vậy cả nông dân, các thương lái, nhà chế biến và nhà xuất khẩu đều phải
quan tâm đến việc quản lý rủi ro về giá đối với sản phẩm hàng hoá của mình để hạn
chế thiệt hại đến mức tối đa và thu được lợi nhuận cao nhất.
Chính vì vậy họ cần có những công cụ phòng ngừa để đạt được mục tiêu
giảm thiểu rủi ro biến động giá, một trong những công cụ hữu hiệu đã được các
nước phát triển ứng dụng từ lâu đó là thực hiện giao dịch các hợp đồng giao sau trên
sàn giao dịch giao sau. Chính nhờ có hợp đồng mua, bán trước với giá ấn định và
giao hàng sau mà các bên có thể hạn chế đến mức tối đa rủi ro về biến động giá nhờ
cơ chế hoán đổi và lựa chọn mà sàn sẽ trực tiếp điều hành. Điều này không thể có
được trong thị trường truyền thống khi thực hiện việc giao hàng ngay theo phương
thức mua đứt bán đoạn thì giá bán chỉ là giá cao vào thời điểm đó, nhưng sau đó các
cơ hội giá có lợi hơn sẽ phải bỏ qua vì hàng đã bán rồi, hoặc nếu ký gửi để bán hộ
thì người bán phải thanh toán tiền lưu kho, tiền bảo quản… và vẫn có thể bị ép giá
do người mua cố tình gây ra. Như vậy nhờ chức năng quản lý rủi ro về giá (đây là
chức năng quan trọng nhất mà thị trường giao sau thực hiện được) và nhờ kinh
5
doanh tập trung có tổ chức với khối lượng giao dịch lớn thông qua các sàn giao dịch
trên khắp thế giới mà thị trường giao sau đã mang lại lợi ích trực tiếp cho các thành
phần tham gia cũng như góp phần bình ổn giá cả, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh.
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về thị trường giao sau với
cách thức giao dịch như thế nào? Chức năng của nó trong hệ thống tài chính?...
1.2. Tổng quan về thị trường giao sau
Thị trường giao sau là nơi mà hàng hóa được giao dịch tập trung tại một sàn
giao dịch, trong đó người bán và người mua gặp nhau trên thị trường với một mức
giá được chấp nhận và hàng hóa được chuyển giao khi đến một ngày đặc biệt được
ấn định trong tương lai. Tất cả giao dịch đều được thông qua một trung gian môi
giới của sàn với những tiêu chuẩn khắt khe về số lượng và chất lượng của hàng hóa.
Hàng hóa ở đây bao gồm hàng hóa thông thường như lúa mì, cà phê, cao su,… và
hàng hóa tài chính như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vàng, ngoại tệ, đồng, bạc,…
Thị trường giao sau rất khác biệt so với thị trường giao ngay và thị trường kì
hạn. Trước tiên là khác biệt về ngày giao hàng, trong giao dịch giao ngay là mua đứt
bán đoạn, còn hợp đồng giao sau là giao vào một ngày thỏa thuận trước với mức giá
định trước. Tiếp đến là cách thức giao dịch, hợp đồng giao sau thường được giao
dịch trên một sàn giao dịch chính thức mang đầy đủ tính pháp lý, người bán, người
mua cần phải thực hiện kí quỹ trên tài khoản phong tỏa để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trong giao dịch. Trên thị trường này có thể tóm gọn lại chỉ có hai chủ thể, một là
người tham gia phòng ngừa (hegding), họ luôn muốn hàng hóa được bảo hiểm giá
trước sự biến động khôn lường của thị trường. Hai là người đầu cơ (speculator), họ
luôn muốn kiếm lợi nhuận dựa trên dự đoán chủ quan về giá cả thị trường, họ sẽ
chốt lời hoặc chốt lỗ bằng cách chốt “vị thế” muabán trong thị trường, số tiền họ
được hoặc mất sẽ không vượt quá giá trị kí quỹ phong tỏa. Trên thực tế, có 2% hợp
đồng đã thỏa thuận được chuyển giao, kết thúc “vị thế” muabán luôn được lựa
chọn nhiều khi đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau.
6
Điều khác biệt tiếp theo là ở các đặc điểm của hợp đồng giao sau như: giá
cả, trung tâm thanh toán bù trừ, nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá, đầu
cơ…
1.2.1. Giá cả và các yếu tố quyết định
Giá cả được quyết định bởi các điều kiện cung cầu, nếu trên thị trường có
nhiều người mua hơn người bán, giá hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng, ngược lại
trên thị trường mà người mua ít hơn người bán, giá sẽ giảm. Vậy từ đâu mà hình
thành nên các điều kiện cung cầu.
Đó là do các lệnh đặt mua và bán khắp nơi trên thế giới đổ về và được tập
trung tại sàn giao dịch hàng hóa. Những lệnh này khi được nhập vào sàn giao dịch
thì sẽ trở thành các hợp đồng giao sau với những điều kiện ràng buộc nhất định giữa
bên bán và bên mua. Đối với các hợp đồng khác thì giá cả được hình thành trên mặt
bằng chung là thỏa thuận, nhưng giao dịch giao sau thì không, nó có nhiều hệ thống
đấu giá được kết nối với bảng điện tử của sàn, những giá này được tự do đặt theo ý
muốn chủ quan của nhà đầu tư và được chuyển đến sàn thông qua hệ thống máy
tính kết nối. Sự đặt giá này được đặt trong một khoản thời gian quy định, đây được
gọi là giờ giao dịch. Theo đó sẽ có nhiều loại lệnh khác nhau được đặt tùy vào tính
chất đầu tư của cá nhân, ví dụ như lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng lỗ…
Chính vì cơ chế đấu giá và cơ chế vận hành của thị trường giao sau đã làm
giá cả hàng hóa phản ánh đúng giá trị thực của nó. Mặt khác nếu lạm dụng thì sẽ
gây ảnh hưởng lớn đến hiện tượng đầu cơ giá, tất nhiên luật định sẽ tạo nhiều cản
trở cho các hoạt động đầu cơ giá đó, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo mục đích cơ
bản của sàn giao dịch giao sau là cung cấp cho các thành viên có thể tự do mua bán
các loại hàng hóa khác nhau vì mục đích lợi nhuận. Đồng thời sàn này được hoạt
động vì mục đích phi lợi nhuận, nhưng mọi giao dịch thông qua sàn cần phải qua
một trung tâm môi giới, tất nhiên nhà đầu tư phải trả một khoản phí hoa hồng nhất
định cho trung tâm này.
7
Ngoài ra, tại sàn giao dịch luôn có một sự hiện diện không thể thiếu của một
trung tâm, đó là trung tâm thanh toán bù trù. Chính trung tâm này đã điều hành hoạt
động của sàn một cách trơn tru và hạn chế sự đầu cơ giá bất hợp pháp của nhà đầu
tư. Vậy trung tâm này có chức năng cụ thể ra sao? Và tầm quan trọng của nó thể
hiện như thế nào?
1.2.2. Trung tâm thanh toán bù trừ (TTTTBT)
Mọi nhà đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau cần phải hiểu rõ cơ chế
hoạt động và chức năng của trung tâm thanh toán bù trừ cũng như hiểu rõ sự vận
hành của thị trường giao dịch giao sau.
Tại mỗi sàn giao dịch đều có một trung tâm thanh toán bù trừ của riêng mình
để đảm bảo giao dịch được thông suốt. Mọi thành viên trên sàn luôn luôn yêu cầu
sự rõ ràng trong giao dịch ở cuối mỗi phiên thông qua trung tâm thanh toán bù trừ,
đồng thời các thành viên này phải thực hiện nghiệp vụ ký quỹ phong tỏa bắt buộc ở
trung tâm thanh toán bù trừ. Đây là yếu tố quy định bắt buộc cho một giao dịch giao
sau, khoản ký quỹ này sẽ đảm bảo các nhà đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của một
hợp đồng giao sau.
Tùy vào số lượng hợp đồng giao dịch mà sẽ có những quy định cụ thể về
lượng tiền cần ký quỹ và cuối mỗi phiên, trung tâm thanh toán bù trừ sẽ thực hiện
chốt lãi hoặc lỗ thông qua tài khoản này. Ví dụ như tại cuối phiên giao dịch, một
quầy môi giới của một nhà đầu tư báo cáo về trung tâm thanh toán bù trừ như sau:
tổng cộng hợp đồng mua giao sau cà phê đã kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 100
tấn, tổng hợp đồng bán giao sau cà phê kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 50 tấn, nhà
đầu tư này đã có trạng thái “net long” (phòng ngừa vị thế mua) là 50 tấn. Trung tâm
thanh toán bù trừ yêu cầu phải mở tài khoản kí quỹ là 2.000.000VNĐ cho một tấn
thì số tiền bắt buộc kí quỹ là 100.000.000VNĐ.
Thông qua tài khoản kí quỹ, cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán
bù trừ sẽ thực hiện cộng tiền lãi hoặc trừ tiền lỗ vào tài khoản kí quỹ. Hiện tượng
này diễn ra cho đến ngày kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc trạng thái muabán. Nếu
8
nhà đầu tư lỗ trong giao dịch và số tiền kí quỹ không đủ thì trung tâm thanh toán bù
trừ buộc nhà đầu tư phải thực hiện kí quỹ thêm theo đúng hợp đồng. Với điều này
sẽ ràng buộc bên mua và bên bán thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và giúp họ biết trước
khoản lãi lỗ khi đầu tư qua thông báo hằng ngày.
1.2.3. Ký quỹ
Để đảm bảo các rủi ro trong giao dịch trên thị trường giao sau và tùy thuộc
vào tính chất đầu tư, hệ thống ký quỹ sẽ có những quy định ràng buộc khác nhau.
Chẳng hạn số tiền ký quỹ sẽ khác nhau khá lớn giữa chủ thể phòng ngừa biến động
giá (hedging) và chủ thể đầu cơ (speculator), lúc nào chủ thể đầu cơ giá cũng luôn
chịu mức ký quỹ cao hơn. Số tiền ký quỹ tùy thuộc vào số lượng hợp đồng và
những quy định của sàn giao dịch giao sau.
Tuy nhiên, chỉ có ba loại tài khoản ký quỹ :
§ Mức ký quỹ ban đầu (Initial margin): mức ký quỹ này do trung tâm thanh
toán bù trừ tại London quy định dựa trên những phân tích lịch sử về biến
động giá cả của các hợp đồng giao sau, nó được xem xét định kỳ, phụ thuộc
vào mức độ biến động. Mức ký quỹ ban đầu được áp dụng cho cả trạng thái
trường/đoản trên cơ sở mỗi hợp đồng, và có thể hoàn lại dựa trên tính thanh
khoản của các trạng thái. Mức ký quỹ thường chiếm khoảng 1015% giá trị
hợp đồng.
§ Mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là số dư tối thiểu trên tài khoản ký
quỹ để duy trì một trạng thái mở sau khi đánh giá lại hàng ngày theo giá trị
thị trường và điều chỉnh lãi lỗ.
§ Mức ký quỹ bổ sung (Margin call): khi số dư tối thiểu hoặc số tiền ký quỹ
ban đầu bị thiếu hụt theo quy định của trung tâm thanh toán bù trừ, các nhà
đầu tư cần thực hiện ký quỹ bổ sung (margin call), khoản ký quỹ bổ sung
được tính trên cơ sở chênh lệch giữa giá tất toán của ngày hôm nay và giá
đêm hôm trước, được tính toán dựa trên mỗi trạng thái mở.
9
1.2.4. Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá
Giao dịch giao sau xác lập được một thị trường mà người mua người bán trao
đổi mua bán với những mục đích khác nhau, nhưng chu vi lại thị trường chỉ bao
gồm hai chủ thể. Một là chủ thể phòng ngừa rủi ro biến động giá (hedging), một là
chủ thể đầu cơ (speculator) trong sự biến động giá.
Đối với chủ thể tham gia phòng ngừa, họ thường là những người sản xuất,
chế biến, xuất nhập khẩu hàng hóa… khi giao dịch trên thị trường thường luôn đặt
mình ở vị thế thích hợp (phòng ngừa vị thế mua hoặc phòng ngừa vị thế bán) để
phòng ngừa, bảo hiểm và hạn chế rủi ro với sự biến động giá không thể dự đoán
được. Trong đó, nghiệp vụ phòng ngừa (hedge) có rất nhiều loại, có thể đơn cử một
vài ví dụ như sau:
§ “Long hedge” – “phòng ngừa vị thế mua”: một công ty chuyên xuất khẩu cà
phê nhân đã ký hợp đồng chốt giá bán 100 tấn cà phê cho đối tác nước ngoài.
Lo ngại giá cà phê trên thế giới tăng mạnh (do nhiều yếu tố quyết định như
cung cầu, thời tiết, năng suất…) sẽ làm chi phí đầu vào tăng mạnh, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh giá cả trên thị trường. Chính vì vậy, công
ty quyết định tham gia bảo hộ giá trên thị trường giao sau. Giả định rằng,
công ty muốn mua 100 tấn cà phê trong một tháng kể từ hôm nay, nhà quản
lý sẽ đặt lệnh mua cà phê bằng hợp đồng giao sau để giảm thiểu rủi ro khi giá
tăng lên. Theo quy định trên sàn 10 tấn là tối thiểu cho mỗi hợp đồng giao
sau, vì vậy, công ty cần mua 10 hợp đồng giao sau. Trong bảng dưới sẽ cho
thấy sự biến động giá cà phê và lợi nhuận đạt được của 10 hợp đồng giao sau
này, giả định các hợp đồng này được định giá bằng VNĐ, Ft là giá giao sau
của hàng hóa, Sn là giá giao ngay và loại trừ mọi chi phí giao dịch.
Ngày Vị thế Ft (triệu đ) Tích lũy
15/8/2010 Mua 10 HĐ giao sau 25 Sn – 25
15/9/2010 Bán 10 HĐ giao sau 27 27 – Sn
Tích lũy khi đến hạn 100*(27 – 25) = 200
10
Đến cuối tháng, giá cà phê trên thị trường giao sau tăng từ 25 triệu VNĐ mỗi
tấn lên 27 triệu VNĐ. Công ty sẽ tiến hành bán 10 hợp đồng giao sau này để kết
thúc vị thế mua vào ngày 15/9/2010, lúc này công ty đã tích lũy được khoản lợi
nhuận ròng từ bảo hộ trên thị trường giao sau là 200 triệu VNĐ chỉ sau 1 tháng để
bù vào chi phí đầu vào gia tăng khi mua giao ngay cà phê.
§ “Short hedge” – “ phòng ngừa vị thế bán”: một chủ trang trại cà phê dự tính
bán 50 tấn cà phê sẽ thu hoạch vào tháng sau. Người này muốn chắc chắn sẽ
bán được giá nên đã quyết định bán chúng trên thị trường giao sau để bảo hộ
trường hợp giá cà phê trên thế giới giảm xuống. Đối với sàn giao dịch cà
phê, giá trị nhỏ nhất cho mỗi hợp đồng giao sau cà phê được giao dịch là 10
tấn. Vì vậy ông ta phải thực hiện bán 5 hợp đồng giao sau cà phê. Bảng dưới
sẽ cho thấy sự biến động giá và kết quả bảo hộ giá từ hợp đồng này. Trong
đó, cà phê được định giá bằng VND, chi phí giao dịch không đáng kể. Giá cà
phê trong tháng ngày một tăng lên, đến 27 triệu đồng mỗi tấn, lúc này nếu để
đến hạn ông ta sẽ bị mất khoản tiền khá lớn. Khôn ngoan hơn hết là chốt vị
thế bán, chấm dứt hợp đồng.
Ngày Vị thế Ft (triệu đ) Tích lũy
24/8/2010 Bán 5 HĐ giao sau 25 25Sn
24/9/2010 Mua 5 HĐ giao sau 27 Sn27
Tích lũy khi đến hạn 50*(25 27)= 150.000
1.2.5. Nghiệp vụ đầu cơ trên thị trường giao sau
Thị trường giao sau luôn tồn tại tính công bằng trong giao dịch, đối với
những nhà kinh doanh tham gia phòng ngừa biến động giá, họ có thể bán hàng hóa
ở mức giá tốt hơn hoặc loại bỏ vị thế trên thị trường giao sau để giao dịch hàng hóa
trên thị trường giao ngay. Với những khoản tiền bị mất do dự đoán giá hàng hóa
giao sau sẽ được chuyển tiếp cho những nhà đầu cơ, những người dám cược chiều
11
ngược lại của giá hàng hóa. Họ cũng chính là thành phần không thể thiếu của thị
trường.
Có thể lấy một ví dụ đơn giản. Thị trường sản phẩm dầu thô giao ngay đang
từng ngày tăng giá, cùng với các yếu tố vĩ mô khác, nhà đầu cơ dự đoán rằng trong
một tháng tới, giá dầu thô sẽ tiếp tục tăng lên nên đã mua 10 hợp đồng giao sau trên
thị trường NYMEX, mỗi hợp đồng là 1.000 barrels (barrels là đơn vị tính của dầu
thô). Đến khi đáo hạn nhà đầu cơ này đã bị lỗ 20.000 USD, tuy nhiên, khoản lỗ này
đã được trừ theo từng ngày giao dịch với tài khoản ký quỹ, nên có thể theo dõi sát
tình hình biến động lỗ lãi. Ngoài ra, trong đa số trường hợp trên nhà đầu cơ thường
cắt lỗ của hợp đồng bằng cách đóng trạng thái vị thế.
Ngày Vị thế Ft Tích lũy
3/8/2010 Mua 10 HĐ giao sau $36 Sn$36
3/9/2010 Ban 10 HĐ giao sau $34 $34Sn
Tích lũy khi đến hạn 10.000*($34$36)=20.000
Theo nhiều nhận định, đầu cơ trên thị trường giao sau chẳng khác nào một
trò cờ bạc. Điều này không