Trong giai đoạn toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế hiện nay, nhiều liên kết kinh tế khu vực ở các cấp độ khác nhau đã được hình thành giữa các quốc gia nhằm tăng cường phát triển kinh tế trong khuôn khổ của khối nói chung và tạo điều kiện thuận hơn cho các nước thành viên trong khu vực phát triển kinh tế của mình nói riêng.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), từ khi ra đời cho đến nay đã dần dần khẳng định được tiếng nói của mình trên trường quốc tế và đang được đánh gía là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, đang đứng trước nhiều thách thức do sự phát triển nền kinh tế thế giới và nội bộ ASEAN đặt ra, vì vậy các nước ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình liên kết khu vực, đặc biệt là hợp nhất kinh tế khu vực giữa các nước thành viên và coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện nay.
Cùng với khu vực mậu dịch tư do ASEAN (AFTA), sự ra đời của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận lợi cho luồng vốn đầu tư, công nghệ và chuyên gia trong khu vực. Hơn nữa sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN còn có vai trò giúp các nước trong khu vực trong việc tăng cường cạnh tranh thu hút FDI với các nền kinh tế mới nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Bởi mục tiêu chủ yếu của Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) là hợp tác để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài khu vực. Vì vậy mà việc tăng tốc xây dựng khu vực đầu tư ASEAN cũng như việc đẩy nhanh thời gian thực hiện AIA là một điều hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước ASEAN trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay.
Mục đích của bài luận văn nay là xem xét và đánh giá tầm quan trọng của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN và quá trình thực hiện AIA của các nước này, đồng thời đưa ra những thách thức mà các quốc gia này cần phải đối mặt cũng như những giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành AIA, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút FDI trong thời gian tới của các quốc gia này trong khuôn khổ AIA
51 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xem xét và đánh giá tầm quan trọng của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN và quá trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế hiện nay, nhiều liên kết kinh tế khu vực ở các cấp độ khác nhau đã được hình thành giữa các quốc gia nhằm tăng cường phát triển kinh tế trong khuôn khổ của khối nói chung và tạo điều kiện thuận hơn cho các nước thành viên trong khu vực phát triển kinh tế của mình nói riêng.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), từ khi ra đời cho đến nay đã dần dần khẳng định được tiếng nói của mình trên trường quốc tế và đang được đánh gía là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, đang đứng trước nhiều thách thức do sự phát triển nền kinh tế thế giới và nội bộ ASEAN đặt ra, vì vậy các nước ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình liên kết khu vực, đặc biệt là hợp nhất kinh tế khu vực giữa các nước thành viên và coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện nay.
Cùng với khu vực mậu dịch tư do ASEAN (AFTA), sự ra đời của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất kinh tế giữa các quốc gia thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận lợi cho luồng vốn đầu tư, công nghệ và chuyên gia trong khu vực. Hơn nữa sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN còn có vai trò giúp các nước trong khu vực trong việc tăng cường cạnh tranh thu hút FDI với các nền kinh tế mới nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Bởi mục tiêu chủ yếu của Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) là hợp tác để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài khu vực. Vì vậy mà việc tăng tốc xây dựng khu vực đầu tư ASEAN cũng như việc đẩy nhanh thời gian thực hiện AIA là một điều hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước ASEAN trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay.
Mục đích của bài luận văn nay là xem xét và đánh giá tầm quan trọng của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN và quá trình thực hiện AIA của các nước này, đồng thời đưa ra những thách thức mà các quốc gia này cần phải đối mặt cũng như những giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành AIA, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút FDI trong thời gian tới của các quốc gia này trong khuôn khổ AIA
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát sự hình thành đầu tư trong khuôn khổ ASEAN
Chương 2: Những nội dung chính của Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN và lộ trình thực hiện Hiệp định
Chương 3: Một số quy định pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH ĐẦU TƯ TRONG KHUÔN KHỔ ASEAN
1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi do mỗi cách tiếp cận khác nhau, chúng ta lại có những khái niệm khác nhau về FDI
Theo như giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, năm 2005 NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. FDI được định nghĩa là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là loại hình di chuyển vốn giữa các nước trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Còn trong sách Quan hệ kinh tế quốc tế, năm 2003, NXB Thống kê. FDI lại được định nghĩa là: hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư.
Trong bách khoa toàn thư Wikipedia, FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại thế giới WTO đưa định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh, Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Và theo như định nghĩa của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), thì đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là hoạt động đầu tư của một doanh nghiệp để thu hút một lợi ích lâu dài, quản lý tại một doanh nghiệp khác ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của doanh nghiệp đầu tư.
Mỗi định nghĩa là một cách hiểu khác nhau và ở góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, định nghĩa nào cũng cho chúng ta thấy đầu tư trực tiếp là sự di chuyển vốn giữa các quốc gia, và là một dạng quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài.
1.2. Các hình thức của FDI
Căn cứ vào mục đích của FDI
FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên: là hình thức đầu tư nguyên thủy của các công ty xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển. Hình thức này có tác dụng thúc đẩy thương mại thông qua nhập khẩu tư liệu sản xuất từ nước đầu tư đến nước nhận đầu tư và xuất khẩu thành phẩm, bán thành phẩm từ nước nhận đầu tư ra nước ngoài.
FDI tìm kiếm thị trường: là hình thức đầu tư sản xuất cùng loại sản phẩm với nước đầu tư và tiêu thụ sản phẩm tại nước nhận đầu tư, được gọi là FDI theo chiều ngang. Hình thức này xuất hiện do các rào cản thương mại và chi phí vận chuyển cao.
FDI tìm kiếm hiệu quả: là hình thức trong đó nhà đầu tư phân bổ một số công đoạn sản xuất ở nước ngoài để tận dụng chi phí thấp nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất, được gọi là FDI theo chiều dọc, chủ yếu áp dụng cho các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Hình thức cổ điển nhất của nó là đầu tư sang các nước đang phát triển nhằm tìm kiếm các nguồn lao động chi phí thấp.
FDI tìm kiếm tài sản chiến lược: là hình thức xuất hiện ở giai đoạn phát triển cao của toàn cầu hóa sản xuất, khi các công ty đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm khả năng hợp tác nghiên cứu và triển khai. (R&D).
Căn cứ vào hình thức góp vốn, FDI được chia thành:
Dự án 100% vốn nước ngoài.
Xí nghiệp liên doanh do các doanh nghiệp của cả nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư góp vốn.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do nhà đầu tư nước ngoài thuê gia công linh kiện, tạo ra luồng thương mại hướng vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.
Hợp đồng BOT (xây dựng, hoạt động và chuyển giao), BTO (xây dựng, chuyển giao và hoạt động), BT (xây dựng, chuyển giao)
2. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước ASEAN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của một quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Nhìn lại quá trình công nghiệp hóa thành công của các nước ASEAN đều thấy, nguồn vốn đầu tư nói chung và FDI nói riêng là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình công nghiệp hóa. Bởi vì đi cùng với FDI là kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kỹ năng lao động, thị trường, .v.v... Và nếu các nước đi sau có một chính sách thu hút và sử dụng FDI một cách hợp lý, có thể sẽ tận dụng được thành quả to lớn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đi tắt và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa. Đối với từng quốc gia cụ thể có những lợi thế và điều kiện riêng trong việc thu hút và sử dụng FDI.
Với các nước đang phát triển đặc biệt là các nước trong khuôn khổ ASEAN, thì FDI có vai trò quan trọng trong việc:
- Đáp ứng nhu cầu về vốn:
Giải quyết vấn đề thiếu vốn là một trong những tác động tích cực nhất mà FDI mang lại cho nước nhận đầu tư. Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm vốn trong nước và nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vối tích lũy trong nước là rất hạn chế, không thể đáp ứng đủ nhu cầu phát triển đất nước. Một khi thiếu vốn, các nước này sẽ không thể đầu tư mở rộng và hiện đại hóa sản xuất, từ đó dẫn đến năng suất thấp, sức cạnh tranh kém, lợi nhuận thấp và dẫn đến tỷ lệ tích lũy thấp. Đó chính là cái vòng luẩn quẩn. Để thoát ra được, cần phải có “cú huých từ bên ngoài”, đó chính là FDI. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước có trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển kinh tế.
Tại nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế. Để đánh giá vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta có thể xem xét kỹ tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên tổng sản phẩm quốc dân (FDI/GDP) ở một số nước thực hiện khá thành công chiến lược thu hút FDI trung bình trên 10% như: Indonexia 10,9%, Malaysia 26,6% và đặc biệt là Singapore 65,3%. Ở các nước này FDI đã thực sự đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế và nếu chỉ căn cứ vào tình hình thực tại về số lượng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá rằng FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các nước này.
Bên cạnh đó, điều quan trọng của FDI đối với việc phát triển kinh tế là vai trò của nó đối với nguồn tiết kiệm. Về cơ bản FDI có thể khuyến khích tăng nguồn tiết kiệm đặc biệt đối với những nước nhận đầu tư. Quá trình này có thể dễ dàng xảy ra vì FDI có thể tạo thêm việc làm trong nước và tạo ra thu nhập, do đó nó có thể làm cho nguồn tiết kiệm tăng lên ở nước sở tại. Ngoài tiền lương mà các nhà đầu tư nước ngoài trả và những khoản thu nhập mà những nhà cung cấp địa phương kiếm được vì các nhà đầu tư nước ngoài cũng có ảnh hưởng tích cực đến tiết kiệm. Cùng với quá trình các nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể làm tăng tiết kiệm trong nước bằng những cách khác nhau như xây dựng các kế hoạch trả lương, chi trả vào các khoản tiết kiệm...
Ngoài ra, FDI còn đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có thể được bổ xung bằng nguồn vốn FDI. Khi FDI chảy vào một nước, nó có thể làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai. Nó cũng có thể triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua thời gian khi các Công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng. Thêm nữa khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà như công nghệ, kỹ năng sản xuất..., chúng làm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các hãng trong nước, do đó có thể làm tăng xuất khẩu, góp phần tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại.
- Đáp ứng nhu cầu về chuyển giao công nghệ
Đối với những nước đang phát triến nơi mà trình độ công nghệ còn lạc hậu thì đáp ứng nhu cầu về vốn vẫn là chưa đủ. Cho dù chúng ta có tiền để nhập những máy móc, công nghệ hiện đại nhất nhưng nếu chúng ta chưa biết khai thác sử dụng và quản lý nó một cách hiệu quả thì đó chỉ là sự lãng phí. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó số vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn bằng hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... (hay còn gọi là công nghệ cứng) và cả vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường... (hay còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động FDI, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển tự nghiên cứu để phát triển khoa học công nghệ cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc làm khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển khoa hoc kỹ thuật công nghệ và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển hiện nay là phải biết tận dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp thu được trình độ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển được “đi xe miễn phí”, mà cũng không phải trả một khoản nào cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Các dự án FDI góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh là động lực kích thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất nhờ tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là chìa khóa để các nước đang phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài, biến nó thành các nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo ra được tốc độ phát triển kinh tế cao. Hoạt động FDI đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở những nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn ở trong nước nhằm phát triển nền kinh tế. Mức tăng trưởng kinh tế ở những nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư là chủ yếu, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng lên theo. Vì vậy, có thể thông qua đầu tư để đánh giá một cách tương đối sự tăng trưởng của một nước.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp. Với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại thì chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
- Tăng thu ngân sách nhà nước:
FDI góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc cho thuê đất... Cùng với tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, FDI còn giúp mở rộng thị trưởng cả trong nước và quốc tế. Đa số các dự án FDI đều có bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
- Giải quyết công ăn việc làm:
Về mặt xã hội FDI đã tạo được nhiều chỗ làm việc mới, thu hút được một số lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc trong các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều này góp phần đáng kể vào việc giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt đối với nhiều nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng thì FDI được coi là một chiếc chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên, vì FDI tạo ra các điều kiện về vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng của nền kinh tế trong đó có tiềm năng về lao động.
3. Cơ sở thực hiện của khu vực đầu tư ASEAN
3.1. Sự cần thiết của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998
Trong suốt hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, đặc biệt trong giai đoạn từ đầu thập kỷ 90 đến trước khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á bùng nổ, ASEAN được các nhà đầu tư đánh giá cao về mức hấp dẫn đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN trước khủng hoảng vào năm 1996 đạt đến gần 30 tỉ USD. Nhưng khi cuộc khủng hoảng 1997-1998 nổ ra, lượng FDI vào khu vực này giảm xuống một cách đáng kể, chỉ còn 4,4 tỷ USD trong năm 1998, đến năm 1999 chỉ còn 1,7 tỉ USD. Đây là điều hoàn toàn không tốt đối với các nước ASEAN khi mà các nước này vốn là những nước có nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng việc phát triển đất nước. Trong khi chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thì Trung Quốc lại nổi lên như một điểm nóng về thu hút FDI trong khu vực Châu Á với nguồn tài nguyên phong phú cả về nhân lực lẫn vật lực. Nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng tạo ra mối lo ngại đối với các nước ASEAN, đặc biệt là sự chuyển hướng FDI từ các nước này sang Trung Quốc do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 1997. Để có thể hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và đuổi kịp trình độ của các nước phát triển, các nước ASEAN cần phải thu hút được nhiều FDI hơn nữa, vì FDI đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các nước này trong việc tạo ra cũng như là bổ sung thêm nguồn vốn cho các nước này trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa. Bản thân các nước ASEAN cũng rất nỗ lực trong việc làm thế nào để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, để tăng cường cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nước và khu vực khác trên thế giới, đặc biệt là với Trung Quốc, nhằm hướng dòng FDI quay trở lại khu vực.
Xét về thực trạng chung của dòng FDI vào trong khuôn khổ ASEAN từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, có thể nói nền kinh tế các nước ASEAN trở nên bất ổn định và tốc độ tăng trưởng thất thường, tuy vậy các nước này cũng đã đạt được một số thành tựu trong việc thu hút FDI, lượng FDI vào khu vực đã có xu hướng tăng dần lên so với giai đoạn khủng hoảng, mặc dù sự tăng trưởng này có phần không ổn định. Năm 2000, nền kinh tế của các nước ASEAN đã có thể phục hồi và đạt mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, sang năm 2001, do sự suy giảm kinh tế của Mỹ và Nhật Bản, hầu hết các nước ASEAN 5 (không kể Brunay) tốc độ tăng trưởng đều giảm sút: Indonesia 3,4% Malaysia 0,5%, Thái Lan 2,0%, Singapore (-2%), Philipin 4,5%. Dòng FDI vào khu vực ASEAN giảm xuống 26%, từ 19 tỷ USD năm 2001 xuống còn 14 tỷ USD năm 2002. Còn đầu tư trong nội khối ASEAN lại tăng khoảng 50%, từ 2,4 tỷ USD trong năm 2001 lên 3,6 tỷ USD năm 2002, Năm 2002 đến 2003, FDI vào khu vực ASEAN tăng 27%, từ 15 tỷ USD lên 19 tỷ USD do tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và môi trường đầu tư được cải thiện.
Từ năm 2003, tình hình trong nước và thị trường quốc tế thuận lợi hơn đã làm cho mức tăng trưởng kinh tế của các nước có nhiều khả quan hơn, tạo đà cho năm 2004 đạt mức tăng trưởng khá cao. Mặt khác, khối lượng FDI hồi phục và tăng liên tiếp trong hai năm liền. Dòng FDI vào khu vực tăng lên 43%, từ 14 tỷ USD năm 2002 lên 20 tỷ USD năm 2003, và kết quả là ASEAN trở thành một trong những khu vực tăng trưởng FDI cao nhất. Sự tăng lên mạnh mẽ của FDI trong năm 2003, sự tăng trưởng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 và triển vọng trong các năm sau cho thấy rằng cuộc khủng hoảng này sẽ không còn ảnh hưởng đến sự cân nhắc về vấn đề đầu tư của các công ty đa quốc gia nữa. Sự cải thiện cơ cấu cũng góp phần làm tăng FDI trong khuôn khổ ASEAN.
Trong năm 2005, FDI vào khuôn khổ ASEAN đã tăng 48%, đạt mức kỷ lục 38 tỷ USD kể từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998. Đến quí I năm 2006, FDI vào khuôn khổ ASEAN, tăng 90% so với cùng kỳ năm trước, đạt 14 tỷ USD và vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên đầu tư vào ASEAN chỉ chiếm 6-7% tổng FDI trên thế giới và vẫn là khu vực thu hút đầu tư lớn sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Bảng 1: Dòng FDI vào các nước ASEAN từ 2000 đến quý I năm 2004
(Triệu USD)
Tên nước
2000
2001
2002
2003
2004
Brunay