Đề tài Xu thế quốc tế hóa về kinh tế trong thời đại ngày nay

Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới dù đó là quốc gia phát triển lại có thể tiếp tục phát triển hoặc các quốc gia đang phát triển muốn phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay.

doc8 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xu thế quốc tế hóa về kinh tế trong thời đại ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới dù đó là quốc gia phát triển lại có thể tiếp tục phát triển hoặc các quốc gia đang phát triển muốn phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế là một yếu tố khách quan, bắt nguồn từ sự khác biệt về điều kiện địa lý tự nhiên giữa các quốc gia trên thế giới và sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn đến sự mở cửa để hội nhập với các nền kinh tế quốc tế trở thành điều kiện bắt buộc để phát triển. Như vậy thì các quốc gia trên thế giới muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Từ khi được ban hành, luật đầu tư nước ngoài của nước ta đã được các nhà đầu tư coi là hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên để phù hợp với thực trạng đầu tư ở từng giai đoạn, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1992, mặc dù vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Để thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài với quy mô lớn, chất lượng cao hơn phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì Nhà nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 thay thế cho các văn bản luật về đầu tư nước ngoài từ trước tới nay. Trong nội dung của đề tài này tôi chỉ đề cập đến doanh nghiệp liên doanh, là một trong nhiều hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiểu luận này đã được trình bày như sau: Phần I: Lý thuyết chung về FDI và doanh nghiệp liên doanh. Phần II: Tình hình hoạt động và thu hút các doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam. Phần III: Giải pháp để tăng cường thu hút FDI liên doanh vào Việt Nam. Phần IV: Kết luận Phần I LÝ THUYẾT CHUNG VỀ FDI VÀ DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH 1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI). Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy. Theo luật đầu tư năm 2005, quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu “FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. (nguồn tham khảo như đã dẫn ở trên). Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư. Các hình thức FDI phổ biến 1. Doanh nghiệp liên doanh . 2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài . 3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh . 4. Đầu tư theo hợp đồng BOT. 5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con . 6. Hình thức công ty cổ phần. 7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài. 8. Hình thức công ty hợp danh. 9. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập. 2. Doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh donah có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai. * Đối với nước tiếp nhận đầu tư - Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động làm việc, kết nối ngược trở lại với nền kinh tế nước nhà một cách mạnh hơn và học tập kinh nghiệm quản lí của nước ngoài. - Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo vác vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi lúc liên doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh. * Đối với nhà đầu tư nước ngoài: - Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ. Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư - Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá tài sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải quyết khác biệt về tập quán, văn hoá. Phần II TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM 1. Tình hình thu hút và thực hiện vốn đầu tư nước ngoài đến năm 2009 Tính đến tháng 10/2009, cả nước có 10.805 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 174,7 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất, chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn đăng ký tại Việt Nam. Đến nay, 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư vào Việt Nam, trong đó Đài Loan là nhà đầu tư số 1 với 2.010 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 21,28 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với 2.283 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 20,4 tỷ USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Malaysia, Nhật Bản và Singapore. Đầu tư nước ngoài đã có mặt 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP HCM vẫn là nơi thu hút nhiều nhà đầu tư nhất với 3.092 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 27,1 tỷ USD, chiếm 28,6% tổng dự án và 15,5% tổng vốn đăng ký cả nước. Bà Rịa - Vũng Tàu 2. Thực trạng thu hút nguồn vốn FDI liên doanh vào Việt Nam PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 100% vốn nước ngoài 8391 108.633.853.167 34.410.651.818 2 Liên doanh 2000 54.564.356.809 15.732.624.395 3 Hợp đồng hợp tác KD 221 4.961.177.440 4.479.464.521 4 Công ty cổ phần 183 4.711.218.301 1.354.147.481 5 Hợp đồng BOT,BT,BTO 9 1.746.725.000 466.985.000 6 Công ty mẹ con 1 98.008.000 82.958.000 Tổng số 10.805 174.715.338.717 56.526.831.215 Qua bảng số liệu, ta thấy rằng nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào hình thức công ty có 100% vốn nước ngoài, tiếp đó là liên doanh nhưng cũng chiếm tỷ lệ rất thấp, các hình thức khác thì không đáng kể. Điều đó chứng tỏ rằng Việt Nam vẫn chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các công ty Việt Nam. Nguyên nhân do cơ chế quản trị của ba loại hình doanh nghiệp hiện đang tồn tại ở Việt Nam (sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và đầu tư nước ngoài) có đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Doanh nghiệp ĐTNN luôn áp dụng hệ thống quản trị của công ty mẹ từ trụ sở chính. Nói chung các doanh nghiệp ĐTNN có cơ cấu quản trị chặt chẽ với mục đích chính là phục vụ cho lợi ích của nhà đầu tư ở trụ sở chính, nhưng cũng chính vì thế lợi ích của cổ đông thiểu số (mà trong các công ty liên doanh thì cổ đông thiểu số thường là bên Việt Nam) không được đề cao và bảo vệ hợp lý. Trong khi đó, pháp luật hiện hành liên quan đến đầu tư nước ngoài của ta chưa quy định đủ và hợp lý các công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số. Hơn nữa, cổ đông thiểu số thường là doanh nghiệp Nhà nước, chỉ tham gia vào quản trị công ty thông qua người đại diện, nên nguy cơ bị thiệt thòi của bên thiểu số có thể còn lớn hơn. Tác động của vấn đề môi trường tại VN đối với các nhà đầu tư nước ngoài Đối với Việt Nam họ nêu lên 5 “Rủi ro chính trị” hàng đầu nhà đầu tư cần phải lưu ý khi đầu tư vào Việt Nam; đó là: vấn đề tham nhũng, hiệu quả của chính phủ trong việc điều hành bộ máy của đất nước, chính sách hối đoái, sự bất ổn xã hội, vấn đề môi trường. 3. Liên doanh với nước ngoài: "được" và "chưa được" Thu hút vốn đầu tư tiếp nhận công nghệ nước ngoài là một chủ trương lớn của Nhà nước trong phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở thực hiện luật đầu tư nước ngoài ban hành tháng 12 năm 1987, sửa đổi những lần vào 6-1990, 12-1992 và 12 -1996 và còn tiếp tục hoàn chỉnh. Cho tới nay (2008), cả nước có 10805 dự án được cấp giấy phép đầu tư, với tổng số vốn đăng ký là 174 tỷ USD và các đối tác là những công ty thuộc 89 nước và vùng lãnh thố. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng và có tốc độ tăng trưởng nhanh,đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta, tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm, công nghệ mới,nâng cao năng lực sản xuất, giải quyết việc làm. Tuy nhiên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thể hiện nhiều nhược điềm, nhiều hạn chế cần phải khắc phục, chấn chỉnh mới tạo ra những thuận lợi cho việc thu hút vốn và công nghệ tiên tiến, song thực sự nó đã trở thành một yêu cầu cấp thiết của đất nước trong quá trình đi lên, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và khu vực cũng như thế giới về nhiều mặt.Công nghiệp hóa chất là một ngành kinh tế quan trọng của công nghiệp có nhu cầu hợp tác quốc tế cao để đổi mới công nghệ, thiết bị,phát triển những ngành nghề mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của chúng ngay cả trên thị trường trong nước trong điều kiện mở cửa. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh có thể đánh giá qua mức doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước, đóng góp một phần sản phẩm có chất lượng tốt cho thị trường trong nước. Một số công ty liên doanh khác của ngành sản xuất như Công ty INOUE Việt Nam, sản xuất săm lốp xe máy, xe đẩy, xe đạp VIPLACO sản xuất PVC, phân bón Việt Nhật, sản xuất phân NPK, Công ty lốp YOKOHAMA Việt Nam sản xuất săm lốp ô tô, lốp xe máy, Công ty CALTEX Việt Nam sản xuất dầu mỡ nhờn. Có dự án đã được chính phủ cho phép đầu tư, hiện đang tổ chức thương thảo hợp đồng tư vấn để triển khai đấu thầu, có dự án đang ở trong giai đoạn xét duyệt và ở một số khác ở giai đoạn tính toán bản nghiên cứu khả thi. Mặt khác trong quá trình thảo luận để hợp tác hoặc qua thực tế phát triển của thị trường cũng như các biến động tài chính, một số dự án không thành công, thậm chí đã cấp giấy phép phải thu giấy phép. Để phát triển ngành vốn đang đòi hỏi vốn, công nghệ... và Tổng công ty hóa chất Việt Nam đã "lên" cả một danh mục các dự án kêu gọi đầu tư. Qua nhiều năm hoạt động có thể rút ra nhiều kinh nghiệm bổ ích, cái "được" , và cái "chưa được" trong việc hợp tác, liên doanh để các dự án ngày càng tốt hơn, đóng góp có hiệu quả hơn sao cho hai (hoặc nhiều) bên đều có lợi. Nói chung, các liên doanh được triển khai thuận lợi, đúng với giấy phép đầu tư và các liên doanh góp phần đáng kể cho việc phát triển ngành thông qua việc tiếp nhận những công nghệ mới, cung cấp cho thị trường các sản phẩm mới. Qua làm việc với nước ngoài, lực lượng lao động có điều kiện nâng cao tay nghề, rèn luyện kỷ luật lao động, đặc biệt các cán bộ điều hành thu được các kinh nghiệm về mặt quản lý, tiếp thị, vận dụng luật pháp, củng cố trình độ ngoại ngữ... Song những trục trặc cũng không phải là ít với những nguyên nhân khách quan và chủ quan ở giai đoạn hoạt động ban đầu, cũng như các doanh nghiệp tích lũy, cân đối ngoại tệ, hạn chế hàng rào thuế quan chưa phát huy được tác dụng bảo vệ cho các mặt hàng sản xuất trong nước. Các nhà đầu tư vẫn than phiên về sự thiếu rõ ràng của luật pháp, sự diễn giải luật pháp ở các cấp có nhiều khác biệt, gây những phiền hà không đáng có, việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nhiều khi không suôn sẻ. Tuy mỗi liên doanh có những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, song điểm chung là; các đối tác nước ngoài sang "làm ăn" vì mục đích duy nhất là tìm kiếm lợi nhuận. Họ đầy kinh nghiệm trong kinh doanh, khôn ngoan trong thương trường, thành thạo về quản lý (tuy có trường hợp không hẳn như vậy và cũng đầy khó khăn như Công ty Biophanntex với đối tác là Nga), biết khai thác những sơ hở của pháp luật, của hợp đông, của điều lê hoạt động mà hai bên đã ký kết để làm những việc có lợi cho mình. Do vậy, những đại diện của phía Việt Nam trong liên doanh ngoài sự trung thành, luôn đứng trên quyền lợi của Nhà nươc còn phải có bản lĩnh để đối phó với nhiều tình huống có thể gây bất lợi cho phía ta. Nếu hợp đồng liên doanh không chặt chẽ, cán bộ yếu kém về năng lực hoặc ngả sang quyền lợi cá nhân mà không đấu tranh thì có thể dẫn đến những thua thiệt lớn của Nhà nước. Sự việc ở Công ty P&G Việt Nam đã cho những bài học đáng tiếc mà báo chí đã nói đến rất nhiều lần. Sau 2 năm hoạt động, liên doanh đã lỗ trên 300 tỷ đồng mà nguyên nhân như Bộ kế hoạch đầu tư đã kết luận là thực hiện không đúng giấy phép đầu tư, cụ thể giá bán sản phẩm không thực hiện theo dự án; nhiều khoản chi phí phát sinh không hợp lý, biên chế thừa (nhất là người nước ngoài), tỷ lệ quảng cáo khuyến mại quá cao... Những thua lỗ to lớn ấy, hậu quả nghiêm trọng ấy chắc chắn phải có trách nhiệm của những cán bộ được Nhà nước cử sang trong Hội đồng quản trị (thậm chí chủ tịch hội đồng quản trị) của liên doanh. Không những phẩm chất của những cán bộ được cử sang lãnh đạo liên doanh rất quan trọng mà năng lực của họ cũng quan trọng không kém. Nếu họ không có cái nhìn sắc sảo, không đủ thông tin (trong tình hình khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á, là giá luôn biến động thất thường), nắm vững và phán đoán được giá của đầu vào (nhất là tại các doanh nghiệp mà nguyên liệu nhập chiếm phần lớn) thì cũng gây những thua thiệt lớn. Ở nhiều công ty liên doanh, các báo cáo hoạt động, đặc biệt báo cáo tài chính không được duy trì thường xuyên với công ty mẹ (Việt Nam) để có những chấn chỉnh kịp thời. Có nhiều trường hợp trong điều lệ, chức năng quyền hạn của đại diện phía Việt Nam chưa tạo điều kiện để họ phát huy được chủ quyền của mình trong nhiều vấn đề mang tính quyết định, có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của liên doanh. Song dù sao vẫn khẳng định đường lối thành lập những liên doanh là đúng đắn, không chỉ dừng ở con số chiếm trên dưới 35 % doanh số, nộp ngân sách, đáp ứng được yêu cầu về vốn liếng, về công nghệ mới... để phát triển ngành. Những cái "chưa được" chỉ là tạm thời và sẽ dần khắc phục. Phần III GIẢI PHÁP THU HÚT FDI LIÊN DOANH VÀO VIỆT NAM Để tạo chuyển biến cơ bản dòng vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đồng thời khắc phục những yếu kém và tồn tại mà năm 2009 còn chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để. Cụ thể, các giải pháp cho thời gian đến cần phải tập trung là: Thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư: trong quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư cần phải nhận thức sâu sắc rằng mục tiêu là tạo ra môi trường đầu tư tốt hơn cho tất cả mọi nhà đầu tư. Thứ hai là tiếp tục tháo gỡ những rào cản trong công tác quy hoạch: khẩn trương rà soát, điều chỉnh quy hoạch ngành nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với các cam kết quốc tế song phương và đa phương. Trong quy hoạch cần quan tâm thỏa đáng đến lợi thế so sánh của từng ngành và từng địa phương trong thu hút đầu tư nước ngoài. Cần khắc phục ngay những bất hợp lý trong quy hoạch theo kiểu truyền thống: nặng quy hoạch theo địa giới hành chính, nhẹ quy hoạch thống nhất mang tính liên vùng. Tăng cường đầu tư nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, các công trình giao thông, cảng biển nhằm tạo thuận tiện cho các nhà đầu tư. Thứ ba là tháo gỡ những vướng mắc trong triển khai thực hiện dự án: Thực tế năm 2009 cho thấy vốn thực hiện còn rất thấp so với vốn đăng ký. Vì vậy, trong giai đoạn tới cần tiếp tục rà soát các dự án đã được cấp phép, trên cơ sở đó tập trung tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc nhằm thúc đẩy triển khai dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các dự án lớn, chuyển giao công nghệ nguồn mở rộng sản xuất kinh doanh. KẾT LUẬN Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò to lớn để phát triển kinh tế. Trong khi đó, đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, vai trò của vốn FDI lại càng to lớn hơn khi đó là một nguồn quan trọng để phát triển đất nước và tiến hành CNH - HĐH đất nước. Vì thế, thu hút vốn FDI để đáp ứng cho phát triển là một nhu cầu tất yếu và khách quan. Mặc dù chúng ta đã có một số thành tựu trong việc thu hút vốn FDI song hạn chế vẫn nhiều hơn thành công và cơ hội luôn tiềm ẩn những thách thức, khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn mong rằng hạn chế và khó khăn sẽ được xóa bỏ trong tương lai, thách thức sẽ được vượt qua và cơ hội sẽ được tận dụng một cách đầy đủ và khôn ngoan. Và chúng ta cũng cần biết rằng, để tăng cường việc thu hút vốn FDI liên doanh, nước ta không những cần những cơ chế, chính sách thực sự đủ hấp dẫn nhà đầu tư mà còn cần một tầm nhìn chiến lược và một kế hoạch cụ thể từ việc vận động xúc tiến đến sử dụng
Tài liệu liên quan