Nói đến sự phát triển của xã hội loài người, không thể không nói đến sự phát triển và sự tác động của khoa học công nghệ. Vai trò của công nghệ trong bất cứ giai đoạn nào của xã hội loài người cũng đã được lịch sử thừa nhận và tiến bộ công nghệ là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người.
23 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Yếu tố thông tin trong công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến sự phát triển của xã hội loài người, không thể không nói đến sự phát triển và sự tác động của khoa học công nghệ. Vai trò của công nghệ trong bất cứ giai đoạn nào của xã hội loài người cũng đã được lịch sử thừa nhận và tiến bộ công nghệ là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Trong thời đại ngày nay, công nghệ chính là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững trong môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Đặc biệt, đối với một doanh nghiệp, nắm trong tay công nghệ phù hợp là nắm chắc một phần của sự thắng lợi. Vậy làm thế nào để tiếp cận với công nghệ, đó chính là nhờ thông tin. Thông tin chính là chìa khoá để tiếp cận những công nghệ tiên tiến và hiện đại. Trong lĩnh vực quản lý công nghệ, thông tin được coi là “sức mạnh” của một công nghệ thông qua những tri thức được tích luỹ. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, cần thiết phải đi sâu vào tìm hiểu “yếu tố thông tin trong công nghệ”. Đó chính là đề tài của đề án môn học mà em đã chọn.
Trong quá trình hoàn thiện đề án, có thể không tránh khỏi còn có sai sót, kính mong các thầy cô trong khoa giúp đỡ và đóng góp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Kết cấu của đề án ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm có hai phần :
Phần thứ nhất: Khái quát về công nghệ.
Phần thứ hai: Yếu tố thông tin trong công nghệ.
Phần thứ nhất
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ
1.1. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ:
1.1.1. Công nghệ là gì?
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài người. Trong nền sản xuất giản đơn là nền sản xuất mà sự tham gia, can thiệp của máy móc hết sức hạn chế; các yếu tố đầu ra chủ yếu phụ thuộc vào khả năng tổ chức, khai thác, điều hành và quản lý quá trình ấy; bởi vậy, công nghệ được hiểu là nghệ thuật làm việc, tác động lên đối tượng lao động nhất định sao cho đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất. Định nghĩa này chưa nêu được bản chất khoa học của công nghệ.
Cùng với sự phát triển ngày một mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, khái niệm công nghệ ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên việc đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh lại chưa có được sự thống nhất. Đó là do số lượng các công nghệ nhiều đến mức không thể thống kê, công nghệ lại hết sức đa dạng khiến những người sử dụng một công nghệ cụ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái quát của họ về công nghệ là khác nhau.
Các tổ chức quốc tế về khoa học - công nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia trong từng khu vực trên phạm vi toàn cầu:
Theo định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc UNIDO thì: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và phương pháp”. Định nghĩa này lần đầu tiên nêu được bản chất khoa học của công nghệ. Tuy nhiên, nó chưa thể hiện được việc áp dụng mô hình sản xuất công nghiệp trong lĩnh vực phi công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ. Bởi vậy, nó hạn chế xu thế công nghiệp hoá - hiên đại hoá trong lĩnh vực phi công nghiệp.
Định nghĩa của Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á - Thái Bình Dương ESCAP: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kĩ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin”. Với định nghĩa này, khái niệm công nghệ đã được mở rộng ra cả lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Tuy nhiên, nó chưa thể hiện được quan hệ giữa khoa học công nghệ với nguồn lực của doanh nghiệp hoặc quốc tế, cũng như quan hệ nhân quả giữa lý thuyết và thực hành,…
Từ những định nghĩa trên, ta có thể rút ra một định nghĩa khái quát nhất về công nghệ: Công nghệ là hệ thống tập hợp các kiến thức và kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi nguồn lực tự nhiên thành mục tiêu sinh lời cho xã hội.
1.1.2. Phân loại công nghệ:
Hiện nay số lượng công nghệ trên khắp thế giới là không thể tính được, do đó việc phân loại công nghệ một cách chính xác và chi tiết là khó có thể thực hiện được. Bởi vậy, tuỳ theo mục đích người ta có thể phân loại công nghệ theo các tiêu thức sau:
Theo tính chất: có thể phân thành công nghệ dịch vụ, công nghệ thông tin, công nghệ giáo dục, công nghệ tin học,…
Theo ngành nghề: có công nghệ công nghiệp, công nghệ nông nghiệp, công nghệ vật liệu,…
Theo đặc tính công nghệ: có công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục,…
Theo sản phẩm: có công nghệ cổ điển, công nghệ trung gian, công nghệ tiên tiến,…
Theo đặc thù: căn cứ vào vai trò của công nghệ đối với một quốc gia ta có thể phân thành công nghệ then chốt, công nghệ truyền thống, công nghệ mũi nhọn.
Theo mục tiêu: có thể phân thành công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy, công nghệ phát triển.
Theo sự ổn định của công nghệ: có công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm.
1.2. THÀNH PHẦN CÔNG NGHỆ:
Có hai quan điểm về thành phần công nghệ:
1.2.1. Quan điểm điều chỉnh theo công nghệ hiện đại, công nghệ cao, công nghệ mới ra đời:
Theo quan điểm này công nghệ gồm có hai thành phần là phần cứng công nghệ và phần mềm công nghệ.
Phần cứng công nghệ gồm máy móc, trang thiết bị, công cụ,… Trong công nghệ sản xuất, các vật thể này thường làm thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi (thường gọi là dây chuyền công nghệ), ứng với một quy trình công nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục của quá trình công nghệ
Phần mềm công nghệ: đặc trưng của phần này là chất xám, trí tuệ. Nó bao gồm công nghệ hàm chứa trong kĩ năng công nghệ của con người làm việc trong công nghệ, công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức, công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư liệu hoá được sử dụng trong công nghệ.
1.2.2. Quan điểm Atlat công nghệ của Liên Hợp Quốc:
Theo quan điểm này, công nghệ gồm có bốn thành phần.
Thành phần công nghệ
T
H
I
O
1.2.2.1. T: máy móc, trang thiết bị:
Đây là phần vật thể ở trong công nghệ, bao gồm mọi phương tiện vật chất như trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng, kho tàng,… Bất kì công nghệ nào cũng phải chứa đựng bên trong nó phần thiết bị. Phần này được coi là cốt lõi của công nghệ. Nó được triển khai, lắp đặt và vận hành bởi con người.
1.2.2.2. H: Phần con người:
Con người ở đây có thể là người sử dụng, vận hành, cũng có thể là người chế tạo, cải tiến máy móc,… Con người trong công nghệ được hiểu là năng lực của con người về công nghệ như kĩ năng, kinh nghiệm, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo,… Con người là yếu tố quyết định, không những làm cho máy móc thiết bị phát huy hết khả năng của chúng mà còn đóng vai trò chủ động trong công nghệ. Tuy nhiên, con người lại chịu sự chi phối của thông tin và tổ chức.
1.2.2.3. I: Phần thông tin:
Phần thông tin thể hiện tri thức được tích luỹ trong công nghệ. Nó bao gồm toàn bộ tài liệu chuyên môn nghiệp vụ liên quan; toàn bộ số liệu, dữ liệu, thông số cơ bản liên quan; sơ đồ nguyên tác, nguyên lý lắp ráp; bản vẽ thiết kế, bí quyết công nghệ,…Có những phần tri thức này có thể rút ngắn được thời gian, sức lực khi giải quyết các công việc có liên quan đến công nghệ.
1.2.2.4. O: Phần tổ chức:
Bất kỳ hệ thống nào cũng cần phải có một tổ chức để điều hành hoạt động của hệ thống. Công nghệ cũng vậy, nó cần phải có một bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp các thành phần còn lại của công nghệ với nhau để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả nhất. Phần tổ chức giúp cho việc quản lý, lập kế hoạch, tổ chức bộ máy nhân lực, kiểm soát các hoạt động biến đổi,…Nó phụ thuộc vào độ phức tạp của các phần thiết bị và thông tin trong công nghệ
Như vậy, các thành phần của một công nghệ có quan hệ mật thiết, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, không thể thiếu bất cứ một thành phần nào. Trong mối quan hệ này, phần thông tin đóng một vai trò quan trọng. Nó biểu hiện các tri thức được tích luỹ trong công nghệ và giúp trả lời câu hỏi: “Làm cái gì?” và “Làm như thế nào?”. Bởi vậy, phần thông tin được coi là “sức mạnh” của một công nghệ, là một yếu tố không thể thiếu của công nghệ hiện đại.
Phần thứ hai
YẾU TỐ THÔNG TIN TRONG CÔNG NGHỆ
2.1. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA YẾU TỐ THÔNG TIN TRONG CÔNG NGHỆ:
2.1.1. Khái niệm:
Thông tin là một khái niệm rộng và đã có từ lâu đời. Tùy thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau và giới hạn khái niệm đó nhằm phục vụ lại mục đích nghiên cứu.
Dưới khía cạnh triết học mà xét: thông tin là một quá trình từ phản ánh đến tiếp nhận phản ánh, biến phản ánh thành hiểu biết, tri thức để khám phá bản chất của đối tượng được phản ánh, từ đó điều khiển đối tượng, hệ thống đang xem xét.
Dưới khía cạnh sản lượng: thông tin là một độ đo giảm tính bất định của một sự việc. Nó được thể hiện bởi công thức:
n
I = - ∑ Pilog2Pi
i=1
(Đơn vị: Bit)
Dưới khía cạnh lợi ích của thông tin thì lợi ích của thông tin nằm ngay trong nội dung của bản tin. Cùng một thông tin nhưng với các đối tượng khác nhau thì lợi ích của thông tin đó là khác nhau.
Từ sự phân tích ba khía cạnh trên, ta đưa ra khái niệm tổng quát về thông tin như sau: Thông tin là những kiến thức mới được thừa nhận, đánh giá là những kiến thức có ích nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giải quyết một vấn đề nào đó.
Trong công nghệ: Thông tin công nghệ là những đại lượng được đo lường, những tín hiệu được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định liên quan công nghệ.
2.1.2. Một số đặc trưng cơ bản:
2.1.2.1. Thông tin gắn liền với quá trình điều khiển:
Bản thân thông tin không có mục đích tự thân. Nó chỉ tồn tại và có ý nghĩa trong một hệ thống điều khiển nào đó. Thông tin công nghệ, dù ở bất kì hình thức nào: bảng biểu, bản vẽ, kí hiệu,…đều là những yếu tố cơ bản của một quá trình thành lập, lựa chọn và phát ra quyết định để điều khiển một hệ thống công nghệ.
2.1.2.2. Thông tin có tính tương đối:
Phương pháp phân tích hệ thống đã khẳng định tính bất định của một quá trình điều khiển phức tạp. Tính bất định đó chính là tình trạng không có đầy đủ thông tin. Điều này cũng có nghĩa là mỗi thông tin chỉ là một sự phản ánh chưa đầy đủ về hiện tượng và sự vật được phản ánh, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ và khả năng của nơi nhận phản ánh.
2.1.2.3. Tính định hướng của thông tin:
Thông tin phản ánh mối quan hệ giữa đối tượng được phản ánh và nơi nhận phản ánh, đây là mối quan hệ hai ngôi.
Phản ánh
Ngôi thứ nhất
Ngôi thứ hai
Hiểu biết
Tri thức
Hình 1: Sơ đồ thể hiện tính định hướng của thông tin
Từ đối tượng được phản ánh tới chủ thể nhận phản ánh được coi là hướng của thông tin. Thiếu một trong hai ngôi thông tin không có hướng và thực tế không còn ý nghĩa của thông tin nữa.
2.1.2.4. Mỗi thông tin đều có vật mang tin và lượng tin:
Bản thân thông tin không phải là vật chất nhưng luôn tồn tại trong vật mang tin. Thông tin là linh hồn còn vật mang tin là cái vỏ vật chất. Trên một vật mang tin có thể có nhiều nội dung tin và thông tin thường thay đổi vật mang tin trong quá trình lưu chuyển của mình.
Khái niệm khối lượng tin được dùng cho việc đo quy mô của vật mang tin, có thể gọi là độ dài bản tin. Đơn vị kỹ thuật tin học để đo bản tin hiện nay là Bit.
2.2. VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN TRONG CÔNG NGHỆ:
Có thể nói rằng thông tin công nghệ là phương tiện để thống nhất mọi hoạt động liên quan đến công nghệ; là mắt xích kết nối các yếu tố con người, trang thiết bị, tổ chức trong công nghệ thành một chuỗi hoạt động lôgic. Như vậy, nó chính là mạch máu của hệ thống công nghệ. Mọi hoạt động của hệ thống này đều phụ thuộc vào thông tin để hợp tác, hợp nhất sao cho có hiệu quả nhất.
Thông tin còn là cầu nối giữa tổ chức, doanh nghiệp với môi trường công nghệ bên ngoài. Chính qua thông tin mà các doanh nghiệp trở thành một hệ thống mở tác động tương hỗ với môi trường công nghệ, bởi vậy nó là cơ sở để đề ra các quyết định về công nghệ như quyết định lựa chọn công nghệ, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ,… Mọi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng đến mục đích lợi nhuận tối đa, muốn vậy phải kiếm được “đầu vào” với chi phí thấp nhất. Đầu vào dây chuyền công nghệ nếu hoạt động hiệu quả sẽ giúp tiết kiệm nguyên nhiên liêu, giảm sức người, sức của. Việc tìm kiếm một dây chuyền như vậy không quá khó khăn nhưng cũng không phải đơn giản, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp phải có được những thông tin cần thiết để quyết định chọn nơi mua bán có lợi nhất cả về giá cả và hiệu quả sử dụng. Xu hướng kinh tế thế giới cũng đang thay thế sự tăng mức lợi nhuận chủ yếu bằng mở rộng quy mô sản xuất sang thực hiện tối ưu hóa quá trình sản xuất, đầu tư chiều sâu và áp dụng các kĩ thuật công nghệ mới. Trong lĩnh vực này, người ta đang bỏ ra rất nhiều công sức và chi phí để có được những thông tin mới mẻ, đôi khi mang tính chất giành giật quyết định. Như vậy, thông tin công nghệ góp phần phục vụ tối ưu hóa các yếu tố sản xuất.
Thông tin công nghệ thể hiện tri thức được tích lũy trong công nghệ. Nhờ các tri thức này mà các sản phẩm của nó có các đặc trưng mà sản phẩm cùng loại của các công nghệ khác làm ra không thể có được. Đối với cùng một công nghệ nếu áp dụng những kiến thức khác nhau cũng có thể tạo ra những sản phẩm khác nhau. Như vậy, thông tin công nghệ còn góp phần phục vụ khác biệt hóa sản phẩm.
Với những vai trò quan trọng như vậy, thông tin công nghệ là một trong những thông tin quan trọng nhất mà bất kể doanh nghiệp nào cũng phải tiếp cận. Thông tin đó là sức mạnh của một công nghệ, đòi hỏi phải thường xuyên được cập nhật đáp ứng sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ.
2.3. YÊU CẦU CỦA THÔNG TIN CÔNG NGHỆ:
2.3.1. Tính chính xác:
Tính chính xác được hiểu là phản ánh đúng các tình hình, các sự kiện về công nghệ tức là điều mà người quản lý công nghệ cần phải biết. Tính chính xác của các dữ liệu về công nghệ có thể bị ảnh hưởng bởi nhiễu vật lý như các phương tiện cân, đong, đo, đếm khi thu thập số liệu, kỹ thuật truyền tin và đặc biệt là kĩ thuật xử lý tin; hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi nhiễu ngữ nghĩa hoặc nhiễu thực dụng (do ý thức, trách nhiệm của người cung cấp, ghi chép hoặc xử lý số liệu). Thông tin thu thập không chính xác quản lý sẽ thất bại. Bởi vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp, tổ chức cần phải có sự đầu tư để có những thông tin chính xác, đặc biệt cần nắm rõ nguồn tin để tránh những thông tin sai lệch được tung ra từ đối thủ cạnh tranh.
2.3.2. Tính đầy đủ:
Tính đầy đủ được hiểu là phản ánh đúng và đủ nội dung, đúng và đủ các đơn vị, các sự kiện thuộc lĩnh vực công nghệ. Thông tin quản lý công nghệ nếu không đầy đủ mà là chắp vá, vay mượn thì khó có thể đưa ra các quyết định quản lý có hiệu quả. Bởi vậy, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống thông tin công nghệ định lượng tất cả các hoạt động quan trọng trong lĩnh vực công nghệ. Hệ thống này phải cho phép khả năng tập hợp nhanh chóng, chi tiết thông tin từ các nguồn.
2.3.3.Tính kịp thời:
Tính kịp thời được hiểu là cung cấp tài liệu đúng lúc cho người quản lý. Thông tin không kịp thời sẽ không có giá trị trong việc ra quyết định về quản lý công nghệ, dẫn đến những thiếu hụt, yếu kém hoặc lỡ thời cơ có thể tiếp nhận một công nghệ tốt, từ đó có thể gây ra những hậu quả, thiệt hại lớn. Tính kịp thời còn thể hiện ở việc đi trước, đón đầu, tránh để những công nghệ phù hợp rơi vào tay đối thủ cạnh tranh.
2.3.4. Tính đồng bộ:
Tính đồng bộ thể hiện ở hệ thống thông tin. Hệ thống thông tin phải đồng bộ nghĩa là hệ thống đó phải phản ánh được toàn bộ hoạt động của hệ thống công nghệ đang xem xét. Các số liệu, dữ liệu thu thập được phải nhất quán với nhau, có vậy mới có thể quản lý được dễ dàng.
2.3.5. Tính liên tục:
Khoa học công nghệ ngày một phát triển mạnh mẽ với những thành tựu không ngờ. Thông tin cần phải được cập nhật thường xuyên, liên tục để bắt kịp với sự phát triển ấy, vì trong bất cứ lĩnh vực nào sự lạc hậu sẽ dẫn đến sự thất bại nhanh chóng. Thông tin bị gián đoạn cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiễu. Bởi vậy, đòi hỏi hệ thống thông tin phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận, đơn vị.
2.3.6. Tính tối ưu:
Thông tin quản lý công nghệ phải đảm bảo yêu cầu về mặt kinh tế nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo yêu cầu về mặt hiệu quả. Cần tránh việc phô trương hình thức, nhập và trang bị quá nhiều phương tiện hiện đại nhưng lại không có người có đủ trình độ sử dụng, hoặc không sử dụng được triệt để công suất của thiết bị máy móc gây tốn kém, lãng phí.
2.3.7. Tính bảo mật:
Thông tin công nghệ là những thông tin hết sức quan trọng cần phải được bí mật trong nội bộ doanh nghiệp, tổ chức. Các bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ liệu, các bản thiết kế của công nghệ,… phải được đảm bảo an toàn tuyệt đối tránh để bị rò rỉ vào tay của đối thủ cạnh tranh gây ra những hậu quả khó lường.
Những yêu cầu trên là cơ sở phục vụ cho đảm bảo thông tin trong công nghệ đạt hiệu quả cao. Đảm bảo thông tin là toàn bộ những phương pháp, phương tiện để thực hiện một cách đồng bộ các họat động cơ bản sau: Thu thập, xử lý, phân tích, so sánh, chọn lọc, sử dụng, bảo quản và lưu trữ.
2.4. ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ THỂ HIỆN QUA YẾU TỐ THÔNG TIN:
2.4.1. Chuỗi phát triển của thông tin công nghệ:
Chuỗi phát triển của thông tin công nghệ bắt đầu từ thu thập dữ liệu cần thiết, rồi sàng lọc, phân loại, kết hợp, phân tích, tổng hợp và cập nhật.
Chuỗi phát triển của phần thông tin ( các dữ liệu )
Thu thập
Sàng lọc
Phân loại
Kết hợp
Phân tích
Tổng hợp
Cập nhật
Hình 2: Chuỗi phát triển của phần thông tin
2.4.1.1. Thu thập:
Là khâu đầu tiên vô cùng quan trọng trong chuỗi thông tin. Bởi vậy, thông tin thu thập phải đảm bảo đúng yêu cầu, đầy đủ, có dung lượng và chất lượng thông tin cao.
2.4.1.2. Sàng lọc:
Mục đích của khâu này là làm cho thông tin nhận được có độ tin cậy cao. Do đó, phải hiệu chỉnh những tài liệu, số liệu thu thập được để lọc lấy những thông tin cần thiết và loại trừ những “nhiễu”.
2.4.1.3. Phân loại:
Nội dung của khâu này là sắp xếp các tài liệu thu thập được và phân loại chúng theo nhiều dấu hiệu như: nội dung tài liệu, thời gian nhận, số liệu, bản vẽ,…Việc phân loại giúp cho việc tìm kiếm thông tin được dễ dàng hơn và khi cần kiểm tra tính chính xác của thông tin thu thận thì biết được nguồn gốc của tài liệu chứa thông tin đó. Từ đó, việc quản lý cũng dễ dàng hơn.
2.4.1.4. Kết hợp:
Nội dung của khâu này nhằm kết hợp các thông tin, dữ liệu, các thông số, bản vẽ,…sao cho phù hợp để có thể nhận dạng hoặc thiết kế một dây chuyền công nghệ phù hợp và cần thiết đối với doanh nghiệp.
2.4.1.5. Phân tích:
Giai đoạn này nhằm rút ra từ các dữ liệu đã được kết hợp những kết quả quan trọng nhất, cần thiết nhất.
2.4.1.6. Tổng hợp:
Nội dung của khâu này là tổng hợp lại các thông tin cần thiết đã được xử lý hoàn chỉnh để có thể dùng tin.Thông tin ở khâu này phải đảm bảo đúng loại thông tin yêu cầu, đủ mức độ chi tiết hóa và phải được giao nộp đúng thời hạn yêu cầu của người dùng tin.
2.4.1.7. Cập nhật:
Vì các thông tin công nghệ có thể được sử dụng đồng thời trong nhiều công nghệ. Bởi vậy, nó phải được thu thập thường xuyên, cập nhật liên tục đáp ứng sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ.
Như vậy, chuỗi phát triển của thông tin công nghệ là không có kết thúc. Muốn xây dựng một chuỗi thông tin tốt phải đứng trên quan điểm hiệu quả: việc thu thập, xử lý thông tin, tổng hợp để thu được thông tin mới,… đều đòi hỏi những chi phí nhất định, đều làm theo những hao phí này với những cái lợi mà việc xây dựng hệ thống thông tin đó đem lại.
2.4.2. Mức độ phức tạp của thông tin:
Độ phức tạp của phần thông tin được đánh giá theo các mức sau:
1. Dữ liệu thông báo (báo hiệu): thể hiện bằng hình ảnh, mô hình, tham số cơ bản. Ví dụ: tham số ghi trên nhãn thiết bị,…
2. Dữ liệu mô tả: biểu thị các nguyên tắc cơ bản về cách sử dụng hay phương thức vận hành của phần thiết bị. Ví dụ: các catalo kèm theo thiết bị,…
3. Dữ liệu để lắp đặt: gồm các dữ liệu về đặc tính của thiết bị, nguyên vật liệu, chế tạo chi tiết.
4. Dữ liệu để sử dụng: nằm trong các tài liệu kèm theo thiết bị giúp cho người sử dụng thiết bị một cách hiệu quả, an toàn.
5. Dữ liệu để thiết kế: