Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận Báo cáo bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong môi trường kinh doanh.

pdf10 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận Báo cáo bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo- bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Đào Nam Giang Ngày nhận: 01/06/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/06/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018 Bài viết sử dụng phương pháp phân tích phân phối của các biến phản ánh lợi nhuận để đưa ra bằng chứng về việc các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ. Các phân tích tương tự đối với biến phản ánh sự tăng/giảm của lợi nhuận không cho thấy bằng chứng về việc các NHTM trong mẫu nghiên cứu tìm cách báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Thay vào đó, số liệu thực tế cho thấy những dấu hiệu của việc các NHTM mong muốn báo cáo một mức lợi nhuận ổn định (có thể tăng hoặc giảm nhưng ở mức nhỏ). Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do những yếu kém trong hệ thống quản trị công ty, và các vấn đề trong môi trường kinh doanh. Từ khóa: thao túng lợi nhuận kế toán; phân phối của lợi nhuận; tránh báo cáo lỗ; thao túng số liệu để đạt được các mục tiêu đề ra. 1. Tổng quan nghiên cứu về điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận ai mục tiêu chủ yếu mà các nhà quản trị muốn điều chỉnh số liệu để đạt tới là tránh báo cáo lỗ và tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm. Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp xem xét phân phối của lợi nhuận hoặc phân phối của mức thay đổi của lợi nhuận (earnings distribution approach- EDA) do Burgstahler and Dichev (1997) đưa ra. Theo đó, nếu số liệu báo cáo bị bóp méo để tránh báo có lỗ, khi xem xét phân phối của lợi nhuận ta có thể thấy một mức độ tập trung bất thường của các khoản lãi nhỏ. Đánh giá rõ hơn, một số nhà nghiên cứu có thể so sánh giữa tần suất các khoản lãi nhỏ với tần suất của các khoản lỗ nhỏ (ví dụ Jeanjean and Stolowy, 2008; Leuz, Nanda, and Wysocki, 2003). Ngoài việc tránh báo cáo lỗ, các nhà quản trị cũng có mong muốn báo cáo mức lợi nhuận tăng dần, tức là tránh việc báo cáo mức lợi nhuận thấp hơn so với năm trước, tức chênh QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước liền kề lớn hơn không. Mặt khác cũng tương tự như khi tránh báo cáo lỗ, việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua điều chỉnh số liệu kế toán sẽ có những giới hạn nhất định. Do đó, các nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh số liệu nhiều hơn khi mức sụt giảm lợi nhuận là nhỏ. Để nghiên cứu hành vi này, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung xem xét phân phối của chênh lệch giữa lợi nhuận năm báo cáo và năm trước liền kề; tập trung vào tần suất xuất hiện mức tăng nhẹ và mức giảm nhẹ (tức là phân phối của chênh lệch giữa lợi nhuận năm nay và năm trước quanh điểm 0). Phương pháp này được Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại Nghiên cứu Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ Mẫu nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu chính có liên quan Bornemann, Kick, Memmel, & Pfingsten (2012) Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản nhỏ hơn 0,02% Các NHTM Đức trong giai đoạn từ 1997 đến 2009 Bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Đức đã sử dụng các khoản dự trữ ngầm được phép để tránh báo cáo lỗ, tránh báo cáo mức lợi nhuận sụt giảm so với năm trước hoặc thấp hơn so với các ngân hàng cùng nhóm. Shen và Chih (2005) Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) nhỏ hơn 1% Các NHTM từ 49 quốc gia trong giai đoạn từ 1993 đến 1999 Tại 2/3 số nước khảo sát phân phối của ROE có dạng nửa hình chuông điển hình cho sự thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ. Tại các nước còn lại số quan sát có tỷ lệ ROE dưới 0 cũng thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng. Ngoài ra, các thước đo thống kê khác trong nghiên cứu này cũng cho thấy sự phổ biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ hoặc sự giảm sút của lợi nhuận báo cáo ở các NHTM trong mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên mức độ thao túng số liệu có sự khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự giám sát từ khu vực tư. Hamdi và Zarai (2012) Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ nhỏ hơn 0,25% 125 Ngân hàng Hồi giáo trong giai đoạn 2000- 2009 Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các NHTM Hồi giáo trong mẫu nghiên cứu có xu hướng thao túng số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ nhưng không có bằng chứng về việc thao túng số liệu để báo cáo mức lợi nhuận tăng dần. Maia et al. (2013) Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng khối lượng giao dịch cho vay nhỏ hơn 0,1% Số liệu báo cáo bán niên của 405 Quỹ tín dụng tại Brazil trong giai đoạn 2001- 2011 Nghiên cứu này khảo sát mức độ thao túng số liệu kế toán của các Qũy tín dụng tại Brazil ở 3 khía cạnh: thao túng số liệu để đạt yêu cầu về hệ số an toàn vốn; thao túng số liệu để ổn định lợi nhuận báo cáo và tránh báo cáo lỗ. Các phân tích sơ đồ histogram của lợi nhuận báo cáo cũng cho thấy bằng chứng về việc thao túng số liệu để tránh báo cáo lỗ. Biurrun và Rudolf (2010) Lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản đầu kỳ nhỏ hơn 0,1254 * độ lệch chuẩn của phân phối 21985 ngân hàng từ 47 nước khác nhau, từ 1990 đến 2006 Xem xét thao túng lợi nhuận ở 3 khía cạnh: ổn định lợi nhuận báo cáo; tránh báo cáo lỗ; và báo cáo lợi nhuận cao. Đồng thời xem xét mối quan hệ giữa thao túng lợi nhuận và mức độ quản lý cũng như sự giám sát từ khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế. Các bằng chứng thực nghiệm cũng khẳng định sự phổ biến của việc thao túng số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và hoạt động này có thể được hạn chế thông qua giám sát và quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động của các NHTM. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 các nhà nghiên cứu áp dụng trong các nghiên cứu trên mẫu là các ngân hàng Mỹ như Beatty, Ke, and Petroni (2002), mẫu nghiên cứu đa quốc gia như Shen and Chih (2005), cũng như tại các thị trường đang phát triển như Maia, Bressan, Lamounier, and Braga (2013), Hamdi and Zarai (2012). Về cơ bản, các nghiên cứu đều chứng minh mức độ tập trung bất thường của mức lợi nhuận dương nhỏ và mức tăng nhẹ của lợi nhuận năm báo cáo so với năm trước liền kề. Khi áp dụng phương pháp EDA cho lĩnh vực ngân hàng, theo tác giả được biết, chỉ có một số ít nghiên cứu, ví dụ Quttainah, Song, & Wu (2013), áp dụng trực tiếp tiêu chí xác định mức lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước ở lĩnh vực phi tài chính. Theo đó một đơn vị có mức lãi (lỗ) nhỏ là đơn vị có tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đầu kỳ từ 0% đến 1% (-1%). Thước đo này không thực sự phù hợp do đã bỏ qua đặc điểm của lĩnh vực ngân hàng là có hệ số nợ lớn nên hệ số ROA (biến đại diện cho lợi nhuận) sẽ nhỏ hơn so các doanh nghiệp phi tài chính. Do đó, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào các NHTM đã điều chỉnh thước đo lợi nhuận dương nhỏ/lỗ nhỏ cho phù hợp với lĩnh tài chính. Tuy nhiên, mức tiêu chuẩn để xác định một khoảng lỗ/lãi báo cáo là nhỏ hay không khá đa dạng giữa các nghiên cứu (Bảng 1. Tiêu chuẩn xác định mức lợi nhuận nhỏ của các ngân hàng thương mại). Hơn nữa, phần lớn các nghiên cứu đều thực hiện với mẫu là các ngân hàng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Ngoài ra, các nghiên cứu trước trong hướng này cũng sử dụng hàm hồi quy với biến phụ thuộc là biến giả. Biến giả có giá trị là 0 hoặc 1 tùy thuộc vào việc mức lợi nhuận báo cáo (hoặc thay đổi giữa lợi nhuận báo cáo năm nay so với năm trước liền kề) nằm trong giới hạn lợi nhuận nhỏ hoặc sự gia tăng lợi nhuận thấp hay không. Phương pháp này thường được áp dụng khi các nhà nghiên cứu dựa vào tổng quan lý thuyết trước đó, khẳng định có tồn tại hành vi điều chỉnh số liệu này và muốn xác định nhân tố tác động đến hành vi này. Phương pháp này được sử dụng cho cả các nghiên cứu trên mẫu đa ngành nghề như Mary E Barth, Landsman, Lang, and Williams (2012); Mary E. Barth, Landsman, and Lang (2008), cũng như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực tài chính ngân hàng (Altamuro and Beatty, 2010; Biurrun and Rudolf, 2010; Kanagaretnam, Krishnan, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and Lobo, 2010; Kanagaretnam, Lim, and Lobo, 2011; Zhou and Chen, 2004; Leventis and Dimitropoulos, 2012; và các tác giả khác). Tiêu chí để xác định mức lợi nhuận nhỏ cũng có sự khác biệt giữa các nghiên cứu, ví dụ Kanagaretnam, Lim, et al. (2010) xác định mức lợi nhuận nhỏ là mức ROA nằm trong khoảng (0-0,002), tức là dưới 0,2% chứ không phải là 1% như trong các nghiên cứu cho lĩnh vực phi tài chính. Mức tăng giảm lợi nhuận được coi là nhỏ khi ROA tăng/giảm ít hơn 0,0005 (0,05%), trong đó ROA được tính bằng lợi nhuận trước thuế chia cho tổng tài sản. Altamuro and Beatty (2010) xác định mức tăng lợi nhuận nhỏ là khi ROA tăng ít hơn 0,0008 (0,08%). Con số tương ứng trong các nghiên cứu của Kanagaretnam, Lim, & Lobo (2014) và Kanagaretnam et al. (2011) là 0,001 (0,1%). Mặc dù các nghiên cứu trước khẳng định sự phổ biến của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo cáo, nhưng đặt trong điều kiện của Việt Nam khi yếu tố thuế có vai trò rất quan trọng thì liệu rằng các NHTM Việt Nam có điều chỉnh số liệu kế toán theo hướng này hay không vẫn là một câu hỏi mở. 2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu Các nghiên cứu trước khẳng định nếu các cơ chế quản trị công ty khuyến khích việc chấp nhận rủi ro nhiều hơn thì các NHTM sẽ có xu hướng điều chỉnh số liệu kế toán nhiều hơn (ví dụ Cornett, McNutt, & Tehranian, 2009; Leventis & Dimitropoulos, 2012; Altamuro & Beatty, 2010). Trong khi đó, theo Nguyen Dinh Cung (2008), mặc dù các quy định liên quan đến khung quản trị công ty của các công ty cổ phần ở Việt Nam đã được ban hành đầy đủ nhưng việc vận hành trong thực tế còn khác khá xa so với quy định. Cụ thể cơ cấu quản trị công ty tại Việt Nam vẫn mang tính tập quyền QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 với quyền lực tập trung ở một ít cá nhân, kiểm soát nội bộ lỏng lẻo, kiểm soát từ bên ngoài còn chưa hình thành hoặc không hiệu quả. Do đó nguy cơ lạm quyền là rất cao, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài của công ty, lợi ích của các cổ đông và các bên có liên quan cũng như lợi ích chung của cả nền kinh tế. Tran Thi Thanh Tu, Nguyen Hong Son, & Pham Bao Khanh (2014) cũng kết luận rằng quản trị công ty của các NHTM Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu của OECD và còn thấp rất xa so với chuẩn mực quốc tế. Và những yếu kém trong quản trị công ty đưa đến hậu quả là xu hướng chấp nhận rủi ro quá mức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặt khác, theo Kanagaretnam et al. (2011), tại các nước theo chủ nghĩa cá nhân, có thiên hướng nam tính và mức độ né tránh rủi ro thấp, các NHTM cũng có xu hướng điều chỉnh số liệu nhiều hơn để đạt được các mục tiêu lợi nhuận (tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút trong lợi nhuận báo cáo). Đồng thời, theo G. Hofstede (2017), mặc dù Việt Nam là nước theo chủ nghĩa tập thể nhưng mức độ né tránh các vấn đề không chắc chắn là rất thấp với những biểu hiện như coi trọng thực tiễn hơn là nguyên tắc; và những sai lệch so với chuẩn xã hội dễ dàng được tha thứ. Các kế hoạch, lịch trình luôn linh hoạt, lao động chăm chỉ khi cần thiết chứ không phải vì giá trị hay ý nghĩa của sự cần mẫn; sự chính xác và đúng giờ không phải là điều đương nhiên, sự đổi mới không bị coi như mối đe dọa. Xét về môi trường kinh doanh chung, các doanh nghiệp Việt Nam bị chi phối bởi mong muốn giảm thiểu thuế phải nộp nhiều hơn là làm đẹp số liệu báo cáo để tăng sức hấp dẫn với thị trường tài chính. Tuy nhiên với sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) trong giai đoạn 2005 đến nay, vai trò của thị trường đã được củng cố và các nhà đầu tư, các nhà phân tích ngày càng quan tâm hơn đến số liệu công bố của các công ty niêm yết. Điều này dẫn đến hiệu ứng là các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty và tập đoàn lớn quan tâm hơn tới phản ứng của thị trường và các bên liên đới trước thông tin kế toán công bố. Hơn nữa, tài chính ngân hàng là lĩnh vực bị kiểm soát rất chặt chẽ trong nền kinh tế, việc kinh doanh ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào lòng tin của công chúng. Nếu một ngân hàng làm ăn thua lỗ cũng sẽ nhận được sự chú ý đặc biệt từ các cơ quan thanh tra giám sát, và đây là điều các NHTM hoàn toàn không mong muốn. Nguy cơ bị can thiệp bởi các cơ quan giám sát ngân hàng là một trong những nhân tố làm gia tăng việc điều chỉnh số liệu (Cheng, Warfield, & Ye, 2011). Do đó, các NHTM có động cơ khá rõ ràng trong việc không muốn công bố các thông tin kế toán bất lợi. Tất cả những phân tích trên đều cho thấy cơ sở để đưa ra giả thuyết về việc các NHTM Việt Nam sẽ điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ hoặc tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận báo cáo. Do đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa ra là: Giả thuyết 1: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh số liệu kế toán để tránh báo cáo lỗ. Giả thuyết 2: Các NHTM Việt Nam điều chỉnh số liệu kế toán để tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận báo cáo. 3. Phương pháp nghiên cứu và mẫu nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu Kế thừa theo các nghiên cứu trước, để tìm kiếm bằng chứng của việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự giảm sút của lợi nhuận, tác giả sử dụng cách tiếp cận phân tích phân phối của lợi nhuận (EDA- earnings distribution approach). Hai vấn đề chính cần xác định khi áp dụng phương pháp này là biến đại diện cho lợi nhuận báo cáo và tiêu chuẩn để xác định mức lợi nhuận (lỗ) nhỏ và xác định mức tăng (giảm) lợi nhuận nhỏ. Hai biến số chính để phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng là ROA- tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và ROE- tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: ROAit = Lợi nhuận sau thuế NH i năm t Tổng tài sản của NH i cuối năm t ROEit = Lợi nhuận sau thuế của NH i năm t Vốn chủ sở hữu của NH i cuối năm t QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018 Phân tích phân phối của của ROA và ROE giúp xác định xem có sự tập trung bất thường của những quan sát có mức lợi nhuận nhỏ hay không và từ đó đưa ra bằng chứng về việc số liệu bị điều chỉnh nhằm tránh báo cáo lỗ. Kế thừa các nghiên cứu trước (Kanagaretnam, Lim, et al., 2010; Maia et al., 2013; và Hamdi & Zarai, 2012), một ngân hàng có mức lợi nhuận báo cáo nhỏ khi tỷ lệ ROA của ngân hàng nằm trong khoảng từ 0 đến 0,2%. Điều này cũng là phù hợp với điều kiện của các NHTM Việt Nam khi theo Bảng 2, hệ số ROA có giá trị bình quân là 1,0% và giá trị lớn nhất là 4,7%. Đối với hệ số ROE, hệ số này đã bao gồm tác động của hệ số nợ và do đó không có sự khác biệt giữa các lĩnh vực khác nhau, do đó, kế thừa các nghiên cứu trước, bài viết xác định mức lợi nhuận nhỏ là mức nằm trong khoảng từ 0% đến 1%. Việc phân tích phân phối của biến phản ánh tăng/giảm trong lợi nhuận báo cáo sẽ giúp xác định bằng chứng về việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh sự sụt giảm trong lợi nhuận. Tăng giảm trong lợi nhuận (Droa, Droe) được tính tương ứng như sau: Droa it = ROA it - ROA it-1 Droe it = ROE it - ROE it-1 Bên cạnh đó, tác giả cũng xác định một quan sát được coi là có tăng (giảm) nhỏ trong lợi nhuận báo cáo khi “droa” nằm trong khoảng từ 0% đến 0,2% (-0,2% đến 0%) và “droe” nằm trong khoảng từ 0% đến 1% (từ -1% đến 0%). 3.2. Mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu với số liệu của 30 NHTM Việt Nam trong giai đoạn từ 2004 đến 2017. Một số ngân hàng đã bị sáp nhập, hoặc mua lại nên sẽ không có đủ toàn bộ dữ liệu cho cả 14 năm. Mẫu nghiên cứu cuối cùng bao gồm 365 quan sát. Các dữ liệu thu thập bao gồm: Lợi nhuận sau thuế, vốn chủ sở hữu và tổng tài sản của các NHTM. Các chỉ tiêu này được lấy từ báo cáo tài chính (BCTC) hợp nhất đã kiểm toán công bố trên Website chính thức của các NHTM. Các tham số thống kê mô tả cơ bản mẫu nghiên cứu được trình bày trong Bảng 2. Theo đó, các NHTM trong mẫu có tổng tài sản bình quân là 107.542 tỷ đồng, dao động từ 144 tỷ đồng (Ngân hàng Nam Việt năm 2005) đến 1.202.283 tỷ đồng (số liệu của BIDV năm 2017). Vốn chủ sở hữu bình quân là 8.856 tỷ đồng, dao động từ mức nhỏ nhất là 34 tỷ đồng (của NHTMCP phát triển Mê Kông năm 2005) đến 63.765 tỷ đồng (của NHTMCP Công thương Việt Nam năm 2017). Tỷ lệ VCSH trên tổng tài sản bình quân toàn mẫu là 12,6%, dao động từ 2,9% đến 100%. Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (roa) của các NHTM trong mẫu nghiên cứu trung bình khoảng 1,0%, biến thiên từ 0,001% đến 4,7%. Hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có bình quân là 9,5% và biến thiên từ 0,1% đến 29,8%. Như vậy, tất cả các NHTM trong mẫu đều báo cáo lãi mặc dù một số nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời và hiệu quả quản lý chi phí của các NHTM Việt Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực. Về biến động của lợi nhuận, biến “droa” bình Bảng 2. Thống kê mô tả các biến phản ánh đặc điểm mẫu nghiên cứu Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Min Pctl(25) Trung vị Pctl(75) Max VCSH/Tổng TS 365 0,126 0,121 0,029 0,067 0,094 0,134 1,000 VCSH (tỷ đồng) 365 8.120 10.582 34 2.178 4.017 9.841 63.765 Tổng TS (tỷ đồng) 365 107.542 173.247 144 16.378 44.346 124.118 1.202.283 roa 365 0,010 0,007 0,0001 0,005 0,009 0,013 0,047 roe 365 0,095 0,061 0,001 0,050 0,091 0,133 0,298 Droa 337 -0,001 0,006 -0,030 -0,002 -0,0001 0,002 0,030 Droe 337 -0,001 0,047 -0,206 -0,028 0,0001 0,027 0,159 Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu công bố của các NHTM bằng phần mềm R QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018 quân là -0,1% và độ lệch chuẩn là 0,6%, dao động từ -3% đến 3%. Tương tự, tính trung bình droe là -0,1% (với độ lệch chuẩn là 4,7%); dao động từ -20,6% đến 15,9%. Như vậy, xét bình quân, mức tăng giảm của các hệ số phản ánh khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam là khá nhỏ. 4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 4.1. Kết quả thực nghiệm về điều chỉnh số liệu để tránh báo cáo lỗ Hình 1 và Hình 2 cho thấy phân phối tương ứng của ROA và ROE từ 2004 đến 2017. Căn cứ vào các hình này có thể thấy rất rõ mức độ tập trung bất thường của các quan sát ở phân tổ sát bên phải 0. Điều này đặc biệt rõ nét nếu nhìn vào phân phối của ROA. Có thể thấy, trong giai đoạn nghiên cứu các NHTM trong mẫu không báo cáo lỗ. Đối với các NHTM khác gặp khó khăn về tài chính, ngay khi có thông tin về việc tái cơ cấu hay sáp nhập, thông tin tài chính không được công bố, BCTC năm trước đó liền kề vẫn cho thấy ngân hàng có lãi (ví dụ BCTC của Ngân hàng Xây dựng- VNCB năm 2011, của Ngân hàng Phương Nam năm 2013, Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long- MHB năm 2014). Có thể thấy khá rõ sự tập trung bất thường của các quan sát có mức lợi nhuận nhỏ (ROA dưới 0,2% hoặc ROE dưới 1%). Do đó, có thể khẳng định các NHTM Việt Nam có thực hiện việc điều chỉnh số liệu công bố để tránh báo cáo lỗ. 4.2. Kết quả thực nghiệm về điều chỉnh số liệu để tránh sự giảm sút của lợi nhuận báo cáo Để chứng minh về việc điều chỉnh số liệu nhằm tránh sự giảm sút trong lợi nhuận báo cáo, bài viết phân tích phân phối của tăng/giảm trong tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (droa) và tăng/giảm trong tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (droe). Hình 3 cho thấy có sự tập trung r