Mục tiêu: Tác giả phân tích kết quả lâm sàng, hình ảnh học trong 6 năm điều trị xạ phẫu Gamma Knife (GKRS) của các bệnh lý dị dạng động tĩnh mạch não (AVM), trọng tâm phân tích mức độ tắc nghẽn dựa vào thể tích của dị dạng. Phương pháp: Từ năm 2006 đến năm 2012, 650 trường hợp dị dạng động tĩnh mạch não (AVMs) đã được điều trị bằng phương pháp GKRS, trong đó, 401 bệnh nhân AVMs được xạ phẫu trên 20 tháng, được theo dõi bằng phần mềm Microsoft Office Access và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê R. Trong số này, có 370 trường hợp có thời gian theo dõi hơn 20 tháng năm. Số lượng bệnh nhân theo phân loại đường kính AVMs của Spetzler – Martin theo thứ tự nhỏ, trung bình và lớn là 250, 142, 9 bệnh nhân. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 30,476 ± 13,48 tuổi (6-76), thể tích trung bình là 8,957 ± 13,257 cm3(0,0187- 135,00), liều ngoại biên trung bình là 21,379 ± 3,04 Gy (13-26), thời gian theo dõi trung bình là 41,829 ± 13,59 tháng (21,43-72,67). Điều trị trước xạ phẫu có 45 bệnh nhân (12,2%). Kết quả: Mức độ tắc nghẽn chung là 90,3%, lần lượt đối với AVM có kích thước nhỏ, trung bình và lớn là 99,2%, 77,6%, 33,3%, thời gian tắc chung là 17,186 ± 7,63 tháng (10-48), đối với các AVMs có kích thước nhỏ và trung bình là 13,863 ± 4,52 tháng (10-36), 24,649 ± 7,49 tháng (12-48). Có 9 bệnh nhân bị xuất huyết não, mức độ xuất huyết chung là 2,25%, tương ứng nhỏ, trung bình và lớn là 1,2%, 2,7% và 11,1%. Có hai bệnh nhân tử vong do xuất huyết. Có 11 bệnh nhân bị phù não, tỷ lệ phù não chung là 2,7%, tương ứng với kích thước nhỏ, lớn và trung bình là 1,2%, 6,3% và 0%. Có hai bệnh nhân phù não tiến triển cần phải điều trị bằng can thiệp phẫu thuật. Kết luận: GKRS an toàn và hiệu quả cho các bệnh nhân dị dạng mạch máu não có chọn lọc, làm giảm nguy cơ chảy máu và tổn thương các cấu trúc lân cận. Các biến chứng có thể chấp nhận được. Cần theo dõi trong thời gian lâu hơn để đánh giá mức độ tắc nghẽn đầy đủ và các biến chứng.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị dị dạng động tĩnh mạch não bằng xạ phẫu Gamma Knife: Kinh nghiệm 401 trường hợp theo dõi trong 6 năm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 168
ĐIỀU TRỊ DỊ DẠNG ĐỘNG TĨNH MẠCH NÃO
BẰNG XẠ PHẪU GAMMA KNIFE: KINH NGHIỆM 401 TRƯỜNG HỢP
THEO DÕI TRONG 6 NĂM
Nguyễn Thanh Bình*, Nguyễn Phong**, Trần Quang Vinh***, Nguyễn Tường Vũ*, Nguyễn Thanh Lịch*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tác giả phân tích kết quả lâm sàng, hình ảnh học trong 6 năm điều trị xạ phẫu Gamma Knife
(GKRS) của các bệnh lý dị dạng động tĩnh mạch não (AVM), trọng tâm phân tích mức độ tắc nghẽn dựa vào thể
tích của dị dạng.
Phương pháp: Từ năm 2006 đến năm 2012, 650 trường hợp dị dạng động tĩnh mạch não (AVMs) đã được
điều trị bằng phương pháp GKRS, trong đó, 401 bệnh nhân AVMs được xạ phẫu trên 20 tháng, được theo dõi
bằng phần mềm Microsoft Office Access và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê R. Trong số này, có 370
trường hợp có thời gian theo dõi hơn 20 tháng năm. Số lượng bệnh nhân theo phân loại đường kính AVMs của
Spetzler – Martin theo thứ tự nhỏ, trung bình và lớn là 250, 142, 9 bệnh nhân. Tuổi trung bình của bệnh nhân là
30,476 ± 13,48 tuổi (6-76), thể tích trung bình là 8,957 ± 13,257 cm3(0,0187- 135,00), liều ngoại biên trung bình
là 21,379 ± 3,04 Gy (13-26), thời gian theo dõi trung bình là 41,829 ± 13,59 tháng (21,43-72,67). Điều trị trước
xạ phẫu có 45 bệnh nhân (12,2%).
Kết quả: Mức độ tắc nghẽn chung là 90,3%, lần lượt đối với AVM có kích thước nhỏ, trung bình và lớn là
99,2%, 77,6%, 33,3%, thời gian tắc chung là 17,186 ± 7,63 tháng (10-48), đối với các AVMs có kích thước nhỏ
và trung bình là 13,863 ± 4,52 tháng (10-36), 24,649 ± 7,49 tháng (12-48). Có 9 bệnh nhân bị xuất huyết não,
mức độ xuất huyết chung là 2,25%, tương ứng nhỏ, trung bình và lớn là 1,2%, 2,7% và 11,1%. Có hai bệnh
nhân tử vong do xuất huyết. Có 11 bệnh nhân bị phù não, tỷ lệ phù não chung là 2,7%, tương ứng với kích
thước nhỏ, lớn và trung bình là 1,2%, 6,3% và 0%. Có hai bệnh nhân phù não tiến triển cần phải điều trị bằng
can thiệp phẫu thuật.
Kết luận: GKRS an toàn và hiệu quả cho các bệnh nhân dị dạng mạch máu não có chọn lọc, làm giảm nguy
cơ chảy máu và tổn thương các cấu trúc lân cận. Các biến chứng có thể chấp nhận được. Cần theo dõi trong thời
gian lâu hơn để đánh giá mức độ tắc nghẽn đầy đủ và các biến chứng.
Từ khóa: Dị dạng động tĩnh mạch não, xạ phẫu gamma knife, xuất huyết, nang
ABSTRACT
GAMMA KNIFE RADIOSURGERY OF ARTERIOVENOUS MALFORMATIONS: SUMMARY OF
EXPERIENCE IN 401 CASES FOLLOWED UP IN 6 YEARS
Nguyen Thanh Binh, Nguyen Phong, Tran Quang Vinh, Nguyen Tuong Vu, Nguyen Thanh Lich
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 168 - 174
Objectives: The authors analyzed the clinical, neuroimaging outcomes and complications that occur in 6
years of patient with AVM after GKRS, focusing on the analysis of the oblitergation rate depending on the AVM.
Methods: Between 2006 and 2012, 650 patients AVMs were treated Gamma Knife radiosurgery (GKRS) at
our unit, 401 prospective patients with cerebral AVMs were treated GKRS more than 20 months and follow up
* Khoa Gamma Knife, ** Khoa Ngoại thần kinh, *** Khoa Hồi sức Ngoại thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: ThS BS Nguyễn Thanh Bình ĐT: 0908129917 Email: drbinhgk@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 169
by Microsoft Office Access, R tatistical analysis. Of these patients, 370 cases were followed up for ≥ 20 months.
Grading depend on diameter of Spetzler – Martin scale: small, medium and large are 250, 142 and 9. The mean
age was 30.476 ± 13.48 years (6-76), the mean volume 8.957 ± 13.257 cm3 (0.0187- 135.00 cm3), the mean
marginal dose was 21.379 ± 3.04 Gy (13-26), and the mean follow up duration was 41.829 ± 13.59 moths (21.43-
72.67).
Results: The angiographic obliteration rate was 90.3% overall, and it was 99.2%, 77.6%, and 33.3 for small,
medium and large AVMs. Respectively, obliterated time 17.186 ± 7.63 (10-48) months. For small, medium
AVMs, the obliterated time are 13.863 ± 4.52 months (10-36), 24.649 ± 7.49 months (12-48) months. Have 9
patients hemorrhage, the overall bleeding rate was 2.25%. The bleeding rate was 1.2%, 2.7% and 11,1% for
small, medium and large AVMs. Have 11 patients with severe brain edema, the brain edema rate overall is 2.7%,
this is 1.2%, 6.3% và 0% for small, medium and large AVMs, 2 patient need open surgery to remove severe brain
edema.
Conclusions: Gamma Knife radiosurgery is a safe and effective treatment for selected patients with AVMs,
and it carries a low risk of first hemorrhage from brain arteriovenous malformations and damaging adjacent
critical vascular structures. Complications are acceptable. However, need follow up along time to appreciate
obliteration rate and complications.
Keywords: Cerebral arteriovenous malformation, gamma knife radiation surgery, hemorrhage, cyst
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vài thập kỷ qua, xạ phẫu Gamma
Knife (Gamma Knife Radiosurgery: GKRS) có
một tiến bộ vượt bậc như là một kỹ thuật ít xâm
lấn nhất để điều trị dị dạng động tĩnh mạch não
(arteriovenous malformation: AVMs(6,7)). Cho
đến thời điểm hiện tại một số lượng lớn các
nghiên cứu lâm sàng về GKRS đã được thực
hiện và đạt được kết quả rất thuyết phục, chỉ có
3 - 7% có dấu tổn thương thần kinh do tia xạ, 1,8
- 5% nguy cơ xuất huyết hằng năm(1,2,4,5,6,11).
Mức độ tắc nghẽn, một tiêu chuẩn để đánh
giá mức độ thành công của điều trị, thay đổi tuỳ
theo báo cáo từ 65% - 94% từ 2 đến 5 năm(6,7,11).
Có một vài lý do cho sự thay đổi này bao gồm
giai đoạn theo dõi khác nhau và kỹ thuật sử
dụng để đánh giá mức độ tắc nghẽn. Phần lớn
các bệnh nhân được mô tả trong các báo cáo sử
dụng các hình ảnh được theo dõi trong vòng 3
năm, và mức độ tắc nghẽn trong thời gian dài
hơn đã không được ghi nhận(6,8). Ngoài ra còn
phụ thuộc vào kỹ thuật chẩn đoán tắc nghẽn
AVMs như chụp cắt lớp điện toán (CTscan),
cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp mạch máu não
xoá nền (digital subtraction angiography:
DSA)(5,6,7). Trong phần nghiên cứu này chúng tôi
theo dõi trong vòng 6 năm với kỹ thuật chẩn
đoán xác định tắc nghẽn AVMs bằng chụp DSA.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
Nghiên cứu tiền cứu 401 bệnh nhân AVMs
theo dõi hơn 20 tháng (trong số 650 bệnh nhân)
được điều trị bằng GKRS từ cuối năm 2006 đến
tháng 1 năm 2011 tại Đơn vị Gamma Knife thuộc
khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Trong số 401 bệnh nhân có 243 nam (60,6%) và
158 nữ (39,4%), tuổi trung bình là 30,476 ± 13,48
tuổi, thay đổi từ 6 đến 76 tuổi (trung vị là 29).
Trong các bệnh nhân này số bệnh nhân bị xuất
huyết trước nhập viện là 276 bệnh nhân (68,8%).
Xuất huyết trước nhập viện đối với các AVM có
kích thước nhỏ, trung bình và lớn lần lượt là
83,2%, 44,8% và 0% và xuất huyết lớn hơn 2 lần
chiếm 38 bệnh nhân (9%), bệnh nhân có triệu
chứng nhức đầu là 321 bệnh nhân (80%) và
động kinh là 78 bệnh nhân (19,5%). Ở thời điểm
xạ phẫu có 61 bệnh nhân (15,2%) có dấu thần
kinh khu trú, 12 bệnh nhân (2,7%) nhập viện
trong tình trạng hôn mê. Trong đó có 352
(87,8%) bệnh nhân GKRS là điều trị đầu tiên, 10
(2,5%) được phẫu thuật trước xạ phẫu, 35 (8,7%)
có can thiệp nội mạch và 3 (1%) đã được xạ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 170
phẫu 1 lần hơn 3 năm trước điều trị lần này, 1
(0,2%) vừa phẫu thuật và can thiệp nội mạch
trước xạ phẫu, không có bệnh nhân nào kết hợp
cả 3 phương pháp phẫu thuật, can thiệp nội
mạch và GKRS. Mặc dù phần lớn các bệnh nhân
có phân độ Spetzler-Martin nhóm I và II (biểu
đồ 1) có chỉ định phẫu thuật và được tư vấn
phẫu thuật, bệnh nhân vẫn chọn điều trị ban
đầu là GKRS.
Trong số các bệnh nhân này, phần lớn các vị
trí AVMs thuộc vùng đính chẩm và nhân xám
đáy não thuộc vùng cấp máu của động mạch
não giữa. Ngoài ra các vị trí hiếm gặp như vùng
thân não, góc cầu tiểu não được cấp máu từ các
nhánh của động mạch cột sống thân nền. Vị trí
của AVMs lần lượt là: chẩm: 53 bệnh nhân
(13,2%), đính: 55 (13,7%), đính chẩm: 7 (1,7%),
não thất: 38 (9,5%), nhân xám đáy não: 36 bệnh
nhân (9%), thái dương: 130 (32,4%), thái dương
đính: 1 (0,2%), thân não: 9 (2,2%), thể chai: 16
(4%), tiểu não: 15 (3,7%), trán: 38 (9,5%), trên
yên: 1 (0,2%). Tĩnh mạch dẫn lưu lần lượt là:
nông: 223 (55,6%), sâu (khi có hỗn hợp dẫn lưu
tĩnh mạch nông và sâu thì vẫn xếp là sâu): 178
(44,4%). Động mạch nuôi của AVMs lần lượt là:
động mạch tiểu não trước dưới: 2 bệnh nhân
(0,5%), các nhánh động mạch tiểu não trước
dưới và sau dưới: 1 (0,2%), các nhánh động
mạch não giữa và não sau là: 76 (19%), động
mạch mạch mạc: 1 (0,2%), động mạch não giữa:
185 (46,1%), động mạch não sau: 58 (14,5%), các
nhánh động mạch não sau và động mạch tiểu
não sau dưới: 3 (0,7%), động mạch não trước: 43
(10,7%), động mạch tiểu não sau dưới: 3 (0,7%),
động mạch tiểu não trên: 1 (0,2%), động mạch
tiểu não trên và động mạch tiểu não trước dưới:
3 (0,7%), động mạch tiểu não trên và động mạch
tiểu não sau dưới: 2 (0,5%), các nhánh não trước
và não giữa: 15 (3,7%), các nhánh não trước và
não sau: 6 (1,5%), các nhánh não trước, não giữa
và não sau: 2 (0,5%). Theo phân loại Spetzler –
Martin là: I: 94 (23,4%), II: 166 (41,4%), III: 118
(29,4%), IV: 17 (4,2%), V: 5 (1,2%), 1 bệnh nhân bị
mất số liệu.
Điều trị xạ phẫu
Đầu bệnh nhân được cố định vào khung
định vị không gian ba chiều Leksell loại G,
sau đó được chụp MRI, CTscan, DSA để xác
định chính xác hình dáng, thể tích và vị trí
của búi dị dạng (nidus) trên không gian 3
chiều. Giới hạn và vị trí của nidus được xác
định trên hình ảnh chụp mạch máu não xoá
nền, sau đó hình dạng và kích thước chính
xác của dị dạng được xác định trên hình cảnh
cộng hưởng từ mạch máu (TOF). Tất cả các
bệnh nhân đều được lập kế hoạch bằng hình
ảnh DSA và MRI, một số trường hợp kết hợp
thêm hình ảnh CTscan có bơm thuốc có đối
quang từ. Tất cả các hình ảnh được chuyển
đến bộ phân lập kế hoạch của máy Leksell
Gamma Knife C (Leksell GammaPlan, Elekta
Instrument AB) xử lý và xác định mục tiêu
điều trị và chuyển đến GKRS với 201 nguồn
60Co.
Theo dõi và đánh giá
Tất cả các bệnh nhân GKRS đều được tái
khám mỗi tháng, 6 tháng, và hằng năm tại Đơn
vị Gamma Knife cho đến khi dị dạng được tắc
nghẽn hoàn toàn. Đối với các AVMs có đường
kính nhỏ hơn 2 cm chúng tôi chụp DSA sau 1
năm, đối với các dị dạng có đường kính từ 2 đến
3 cm, chụp MRI sau 1 năm và chụp DSA sau
năm tiếp theo hoặc chụp DSA ngay sau đó nếu
dị dạng bị biến mất hoàn toàn, các AVMs có
đường kính lớn hơn 3 cm chúng tôi chỉ chụp
DSA khi trên MRI không còn nidus. Sau 3 năm
theo dõi đánh giá nếu kích thước nidus không
thay đổi sau 2 lần theo dõi cách nhau một năm
chúng tôi sẽ đánh giá điều trị theo bước tiếp
theo là can thiệp nội mạch, phẫu thuật hoặc xạ
phẫu lại. Tất cả các đánh giá tắc mạch được sự
kết hợp thống nhất giữa bác sĩ chẩn đoán hình
ảnh và bác sĩ phẫu thuật thần kinh.
Phân tích thống kê
Phân tích số liệu theo phần mềm R. Tất cả
các dữ liệu lâm sàng và hình ảnh học theo dõi
ngay từ đầu bằng phần mềm Microsoft Office
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 171
Access 2007, sau đó chuyển đến phần mềm
R.2.10.1 xử lý số liệu.
KẾT QUẢ
Trong số 401 bệnh nhân nghiên cứu lần này
chúng tôi theo dõi trong thời gian 41,829 ± 13,59
tháng (21,5 -72,7) tháng, được MRI và DSA kiểm
tra. Mức độ tắc nghẽn chung là 90,3%, lần lượt
đối với AVM có kích thước nhỏ, trung bình và
lớn là 99,2%, 77,6 %, 33,3%, thời gian tắc chung
là 17,186 ± 7,63 tháng (10-48), đối với các AVMs
có kích thước nhỏ và trung bình là 13,863 ± 4,52
tháng (10-36), 24,649 ± 7,49 tháng (12-48). Có 9
bệnh nhân bị xuất huyết não, mức độ xuất huyết
chung là 2,25%, tương ứng nhỏ, trung bình và
lớn là 1,2%, 2,7% và 11,1%. Có hai bệnh nhân tử
vong do xuất huyết. Có 11 bệnh nhân bị phù
não, tỷ lệ phù não chung là 2,7%, tương ứng với
kích thước nhỏ lớn và trung bình là 1,2%, 6,3%
và 0%. Có hai bệnh nhân phù não tiến triển cần
phải điều trị bằng can thiệp phẫu thuật. Các
bệnh nhân này đều hoạt động trở lại bình
thường sau phẫu thuật. Có 4 (1%) có di chứng
yếu nửa người tăng lên sau xạ phẫu nhưng hồi
phục dần sau điều trị nội khoa.
Mức đáp ứng trên hình ảnh học
Tất cả các bệnh nhân đều được chụp MRI
kiểm tra, 382 bệnh nhân đã được chụp DSA để
xác định tắc nghẽn hoàn toàn khi dị dạng không
còn nhìn thấy trên MRI, có 3 trường hợp có kích
thước rất nhỏ, chúng tôi không chụp MRI mà
tiến hành chụp DSA mạch máu não sau 10
tháng thì dị dạng hoàn toàn biến mất. 205
(51,1%) trường hợp tắc trường hợp tắc nghẽn
hoàn toàn sau trước 12 tháng. Dưới dây là bảng
phân loại kết quả tắc nghẽn chung của AVM
(bảng 1), của các AVM có kích thước nhỏ (bảng
2), trung bình (bảng 3) và lớn (bảng 4). Còn 37
trường hợp AVMs có giảm kích thước từ 50 đến
90% thể tích, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và
đánh giá các bệnh nhân này. Trong số các bệnh
nhân chưa tắc nghẽn hoàn toàn có 2 trường hợp
được điều trị thứ phát sau can thiệp nội mạch,
sau 1 năm theo dõi kích thước giảm đến 95%,
tuy nhiên sau khi 2 năm theo dõi vẫn không có
tiến triển tắc mạch có lẽ do bệnh nhân đã kháng
tia xạ sau can thiệp nội mạch.
Trong số các bệnh nhân này có chúng tôi
gặp 11 (2,7%) trường hợp phù não nặng. Tương
ứng với kích thước nhỏ, trung bình và trung
bình là 1,2%, 6,3% và 0%. Các trường hợp phần
lớn có đáp ứng tốt với corticoid, 4 trường hợp
còn di chứng yếu ½ người, một trường hợp liệt
VII ngoại biên nhẹ, có 2 trường hợp cần phẫu
thuật cắt bỏ vì phù não tiến triển.
Bảng 1: Thời gian tắc nghẽn của AVMs trong lô
nghiên cứu
Thời gian (tháng) Số bệnh nhân Phần trăm (%)
10 3 0,7
12 202 50,4
18 69 17,2
24 48 12
30 16 4
36 18 4,5
42 2 0,5
48 3 0,7
Chưa tắc 40 10
Tổng cộng 401 100
Bảng 2: Thời gian tắc nghẽn đối với AVMs có đường
kính < 3 cm
Thời gian (tháng) Số bệnh nhân Phần trăm (%)
10 3 1,2
12 194 77,6
18 35 14
24 10 4
30 1 0,4
36 5 2
Chưa tắc 2 0,8
Tổng cộng 250 100
Bảng 3: Thời gian tắc nghẽn của AVM có đường
kính 3-6 cm
Thời gian (tháng) Số bệnh nhân Phần trăm
12 5 3,8
18 35 24,5
24 37 25,9
30 15 10,5
36 13 9,1
42 2 1,4
48 3 2,1
Chưa tắc 32 22,4
Tổng cộng 142 100
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 172
Bảng 4: Thời gian tắc nghẽn của AVM > 6 cm
Thời gian (tháng) Số bệnh nhân Phần trăm (%)
36 1 11,1
48 2 22,2
Chưa tắc 7 77,8
Tổng cộng 9 100
Trong số 401 bệnh nhân chụp kiểm tra bằng
cộng hưởng từ thì AVM tắc nghẽn hoàn toàn là
382 bệnh nhân, tuy nhiên khi kiểm tra bằng
mạch máu não xoá nền trong 382 bệnh nhân thì
tỉ lệ tắc nghẽn là 362, như vậy so với DSA thì độ
chuyên biệt của MRI để chẩn đoán tắc nghẽn
AVM thấp hơn và dể bỏ sót khi dị dạng mạch
máu não chưa tắc hẳn. Do đó tiêu chuẩn vàng
để chẩn đoán tắc AVMs vẫn là DSA.
A B C
Hình 1: Bệnh nhân Nguyen Manh T, 21 tuổi, SNV 200889449, GKRS 3 tháng sau xuất huyết (hình A, B) và
AVM biến mất sau 1 năm (hình C)
BÀN LUẬN
Vấn đề xuất huyết não
Bệnh nhân nhập viện vì xuất huyết não
chung là 66,8% trong khi đó mức xuất huyết
chung của AVM nhỏ, lớn và trung bình là 83,2,
44,8 và 0 %. Nhưng sau khi điều trị biến chứng
xuất huyết chung là 2,25%, tương ứng nhỏ,
trung bình và lớn là 1,2%, 2,7% và 11,1%. Như
vậy sau khi điều trị rõ ràng là giảm nguy cơ xuất
huyết, các AVM có kích thước nhỏ thì được điều
trị lành bệnh nhanh giảm hẳn nguy cơ xuất
huyết, các AVM lớn có thể tắc không hoàn toàn
làm phơi nhiễm với nguy cơ xuất huyết nên tỷ
lệ xuất huyết cao hơn (p < 0,01). Điều này cũng
phù hơp với Karlsson và cộng sự(5,6).
Các yếu tố có liên hệ đến mức độ tắc nghẽn
thành công nhân dị dạng
Các công trình nghiên cứu trước đây cho
rằng các yếu tố như phẫu thuật trước, xuất
huyết trước xạ phẫu, giới hạn nidus rõ ràng là
các yếu tố ảnh hưởng đến độ tắc nghẽn thành
công của AVM(3,6,7,11). Trong công trình nghiên
cứu của chúng tôi, các yếu tố có liên quan đến
tắc nghẽn nidus là phẫu thuật trước (p=0,0035),
xuất huyết trước xạ phẫu (p=0,001), giới hạn của
nidus rõ ràng (p=0,0066), đường kính lớn nhất
của nidus nhỏ hơn 3 (p=0,009), thể tích của
nidus nhỏ hơn 2cm3 (p=0,001), xạ phẫu với liều
ngoại biên lớn hơn 20Gy (P<0,001) hoặc ít nhất
20Gy (p=0,018), can thiệp nội mạch trước GKRS
không liên hệ với mức độ tắc nghẽn sớm của
nidus trong công trình nghiên cứu của chúng
tôi. Tỷ lệ tắc nghẽn của chúng của các công trình
trước đây là 65 - 95%(1,2,4,5,6,11) trong thời gian theo
dõi từ 2 – 5 năm, trong công trình này tỷ lệ tắc
nghẽn nằm trong giới hạn cao trong các công
trình trên.
Các yếu tố liên quan tới mức độ tắc nghẽn
sớm của dị dạng
Kích thước nhỏ, liều điều trị cao, đường biên
nidus rõ ràng và bệnh nhân trẻ là các yếu tố ảnh
hưởng đến mức độ tắc nghẽn sớm của AVM
trong nghiên cứu của Kondziolka và cộng sự(5,11).
Trong số 362 bệnh nhân bị tắc nghẽn AVMs dị
dạng mạch máu não, phân tích khoảng thời gian
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 173
từ lúc xạ phẫu đến khi tắc nghẽn hoàn toàn dị
dạng, trong số này có 205 (51,1%) bệnh nhân dị
dạng mạch máu não tắc nghẽn trong vòng 12
tháng. Các yếu tố liên quan đến tắc nghẽn sớm
của dị dạng bao gồm phẫu thuật trước đó
(p=0,043), thể tích của dị dạng nhỏ hơn 1,9cm3
(p=0,003), đường kính trung bình nhỏ hơn 1,5
cm (p=0,0003), tĩnh mạch dẫn lưu sâu (p=0,0059).
Các biến chứng do ngộ độc tia xạ
Tổn thương não tăng lên do xạ phẫu gặp
trong 11 (1,27%) các trường hợp gặp từ 2 năm
sau xạ phẫu, trong đó có 4 trường hợp đường
kính lớn hơn 3 cm, có 3 trường hợp đường kính
nhỏ hơn 3 cm. Đường kính trung bình là 34,682
± 6,81mm (22,8 – 50,2), trong đó 3 trường hợp có
đường kính < 3 cm, 7 trường hợp có đường kính
3 – 5 cm, 1 trường hợp đường kính > 5 cm. Bệnh
nhân có biểu hiện đau đầu, ói, động kinh và yếu
nửa người, trường hợp dị dạng ở vùng thái
dương hồi phục hoàn toàn sau 18 tháng điều trị,
2 trường hợp bệnh nhân có di chứng yếu nửa
người và 1 trường hợp dị dạng mạch máu não ở
vùng bao trong, kích thước 4 cm, có phù não
nhiều trước điều trị vẫn còn triệu chứng đau
đầu nhẹ và yếu nửa người đang được theo dõi
và điều trị. Hai trường hợp hồi phục hoàn toàn.
Tương tự như Karlsson B và cộng sự(5). Trong
công trình này, các yếu tố ảnh hưởng đến tổn
thương não do xạ phẫu bao gồm các dị dạng có
kích thước lớn hơn 12cm3 nằm ở vùng nhu mô
(p<0,0013), thể tích lớn hơn 10cm3 nhận liều lớn
hơn 20 Gy (p<0,001), các nhánh nuôi xuất phát
từ động mạch đậu vân và động mạch Heubner,
có rối loạn cảm giác ở thời điểm xạ phẫu do có
tổn thương ở vùng đồi thị.
Các yếu tố liên hệ với tắc nghẽn AVMs tốt
hơn và sớm hơn
Kích thước AVMs nhỏ hơn, giới hạn ngoại
biên rõ ràng và liều điều trị ngoại biên cao hơn
và bệnh nhân trẻ hơn là các yếu tố đã báo cáo
trước đây liên quan đến mức độ tắc nghẽn tốt
hơn sau xạ phẫu(3,7,9,12). Phân tích thống kê trong
nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng xuất huyết
não trước khi điều trị là yếu tố quan trọng trong
việc tắc nghẽn AVM tốt hơn và sớm hơn. Sau
GKRS bức xạ ion hoá gây tổn thương tế bào nội
mô, làm tăng sinh lớp nguyên bào sợi cơ, làm
tắc nghẽn lớp nội mô mạch máu và làm co nhỏ
nhân dị dạng(2,3,6).Còn hiện tượng tắc nghẽn tự
phát của dị dạng được biết là một hiện tượng
hiếm gặp xảy ra vài tháng sau xuất huyết, cơ chế
cho rằng tổn thương tế bào nộ