Từ năm 2003-2004 bắt đầu xuất hiện chim yến làm tổ tự nhiên trong
nhà ở các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa. Cho đến nay với việc áp dụng công nghệ
nuôi yến trong nhà, nghề nuôi yến đã phát triển và quần đàn chim yến nhà đã mở
rộng ra tận các tỉnh miền Bắc. Nghiên cứu này đã mô tả hình thái và phân tích đặc
điểm di truyền để xác định chim yến nhà ở tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hải
Phòng thuộc phân loài Aerodramus fuciphagus amechanus (Oberholser, 1912) và
các quần đàn chim yến nhà ở đây được di cư từ các nước khác trong khu vực tới.
Sự mở rộng vùng phân bố của chim yến ra miền Bắc có thể do sự ấm lên bởi biến
đổi khí hậu. Tuy nhiên, nhiệt độ môi trường, đặc biệt là vào mùa đông khi nhiệt
độ xuống thấp kéo dài sẽ làm giảm khả năng sống sót của chim yến. Thời tiết
lạnh, khiến chim yến không thể bay ra khỏi nhà để kiếm ăn, đồng thời thức ăn
côn trùng cũng hạn chế trong mùa này. Nhiệt độ môi trường hạ thấp xuống 6-8 oC
(1/2016) có thể khiến chim yến chết hàng loạt ở Thanh Hóa và Hải Phòng. Một
số giải pháp đã được áp dụng để làm ấm nhà yến, song bổ sung thức ăn côn trùng
bay cho chim yến trong mùa đông ở miền Bắc vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 18/06/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định loại chim yến và ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường đến các quần đàn chim yến làm tổ trong nhà ở tỉnh Thanh Hóa và Thành phố Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 4
DOI: 10.15625/vap.2020.00029
ĐỊNH LOẠI CHIM YẾN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ MÔI TRƯỜNG
ĐẾN CÁC QUẦN ĐÀN CHIM YẾN LÀM TỔ TRONG NHÀ Ở
TỈNH THANH HÓA VÀ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Vũ Huyền Trang1, Hồ Thị Loan2, Nguyễn Lân Hùng Sơn1,*, Hoàng Ngọc Hùng1,3
Tóm tắt: Từ năm 2003-2004 bắt đầu xuất hiện chim yến làm tổ tự nhiên trong
nhà ở các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa. Cho đến nay với việc áp dụng công nghệ
nuôi yến trong nhà, nghề nuôi yến đã phát triển và quần đàn chim yến nhà đã mở
rộng ra tận các tỉnh miền Bắc. Nghiên cứu này đã mô tả hình thái và phân tích đặc
điểm di truyền để xác định chim yến nhà ở tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hải
Phòng thuộc phân loài Aerodramus fuciphagus amechanus (Oberholser, 1912) và
các quần đàn chim yến nhà ở đây được di cư từ các nước khác trong khu vực tới.
Sự mở rộng vùng phân bố của chim yến ra miền Bắc có thể do sự ấm lên bởi biến
đổi khí hậu. Tuy nhiên, nhiệt độ môi trường, đặc biệt là vào mùa đông khi nhiệt
độ xuống thấp kéo dài sẽ làm giảm khả năng sống sót của chim yến. Thời tiết
lạnh, khiến chim yến không thể bay ra khỏi nhà để kiếm ăn, đồng thời thức ăn
côn trùng cũng hạn chế trong mùa này. Nhiệt độ môi trường hạ thấp xuống 6-8 oC
(1/2016) có thể khiến chim yến chết hàng loạt ở Thanh Hóa và Hải Phòng. Một
số giải pháp đã được áp dụng để làm ấm nhà yến, song bổ sung thức ăn côn trùng
bay cho chim yến trong mùa đông ở miền Bắc vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu.
Từ khóa: Aerodramus fuciphagus amechanus, nhiệt độ, sống sót, Yến nhà, Hải
Phòng, Thanh Hóa.
1. MỞ ĐẦU
Loài Chim yến tổ trắng (Aerodramus fuciphagus, Thunberg, 1812, tông Collocalinii,
phân họ Apodinae, họ Apodidae, bộ Apodiformes) phân bố ở khu vực Đông Nam Á, đảo
Hải Nam (Trung Quốc), đảo Nicobar và Adaman của Ấn Độ (Chantler, 1999). Chim yến
có chân nhỏ và yếu, nên không thể đậu trên mặt đất, vì vậy chúng phải bắt mồi trong khi
bay. Thức ăn của Chim yến chủ yếu từ các côn trùng nhỏ trong tự nhiên do đó nhiệt độ
môi trường ảnh hưởng rất lớn tới nguồn thức ăn của chúng.
Ở Việt Nam, trước đây chỉ có các quần đàn chim yến làm tổ lâu đời trong các hang
động tự nhiên trên các đảo ven biển thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến thành phố Vũng
Tàu (Phach & Voisin, 2007). Đến năm 2003, nhà yến Phan Rang (rạp hát Thanh Bình cũ)
đã thu thoạch được 57g yến sào tương đương với 70-80 tổ. Năm 2004, tiếp tục phát hiện
nhà yến ở Nha Trang (155 đường Thống Nhất) với 49 tổ yến (Nguyễn Khoa Diệu Thu,
2013). Cho đến năm 2017, theo thống kê của Công ty Yến sào Khánh Hòa, trên cả nước
1Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
3Trường Đại học Hồng Đức
*Email: sonnlh@hnue.edu.vn
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 243
đã có tới 5.069 nhà yến phân bố trải dài trên 36 tỉnh thành (Công ty Yến sào Khánh Hòa,
2017). Sự mở rộng quần đàn chim yến lên các tỉnh phía Bắc cũng thể hiện sự thích nghi
của các loài chim trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Nghề nuôi chim yến bắt đầu ở
Thanh Hóa từ những năm 2007, song phải đến những năm gần đây mới thực sự phát triển
và mở rộng ra nhiều địa phương như thành phố Thanh Hóa, thị xã Sầm Sơn, các huyện:
Quảng Xương, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Triệu Hóa với khoảng hơn
40 nhà yến. Ở Hải Phòng số lượng nhà yến không nhiều. Nhiệt độ trung bình của các địa
phương như Thanh Hóa và Hải Phòng vào mùa đông thường dao động trên dưới 10oC.
Đây thực sự là một điều kiện không thuận lợi cho sự phát triển của chim yến. Nghiên cứu
của Phach & Voisin (2007), Lê Hữu Hoàng và nnk. (2014), Hồ Thị Loan và nnk. (2015)
cho thấy về hình thái và di truyền chim yến nhà không có nguồn gốc từ chim yến làm tổ
ngoài đảo ở nước ta và là một phân loài khác. Vậy quần đàn chim yến ở các tỉnh phía Bắc
có cùng phân loài chim yến nhà ở các tỉnh phía Nam không? Quần đàn chim yến nhà ở
phía Bắc thích nghi như thế nào để sống sót khi nhiệt độ môi trường xuống thấp vào mùa
đông? Nghiên cứu này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề còn bỏ ngỏ trên.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2015-2016. Tại thành phố Hải Phòng, chúng
tôi nghiên cứu tại nhà yến số 100, ngõ 193, Văn Cao, quận Ngô Quyền và nhà yến ở xã
Hoa Động, huyện Thủy Nguyên. Tại tỉnh Thanh Hóa, nghiên cứu đã khảo sát 42 nhà yến ở
thành phố Sầm Sơn (xã Quảng Vinh, Quảng Thọ, Quảng Hùng) và thành phố Thanh Hóa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp bắt thả để thu mẫu và mô tả hình thái ngoài của 30 mẫu chim
yến nhà thu ở Thanh Hóa và Hải Phòng. Hình thái ngoài chim yến được mô tả theo cách
mô tả phân loại của Võ Quý (1975).
Sử dụng phương pháp sinh học phân tử để hỗ trợ phân loại, nghiên cứu đã tiến hành
thu mẫu chim yến với 1 mẫu ở Thanh Hóa kí hiệu NTH1 và 2 mẫu ở Hải Phòng kí hiệu là
NHP2 và NHP3.
Tách chiết DNA tổng số của các mẫu vật, Nhân bản đoạn trình tự đích bằng kỹ thuật
PCR sử dụng Dneasy blood and tissue kit (Qiagen, Đức) theo quy trình được đưa ra bởi
nhà sản xuất. Phản ứng PCR theo Hồ Thị Loan và nnk. (2015). Điện di sản phẩm PCR
trên gel agarose 1,5% trong. Đọc trình tự trên máy ABI 3100 - Avant Genetic Analyzer
(Applied Biosystems, Mỹ).
Trình tự DNA thu được sẽ được hiệu chỉnh, đối chiếu với các trình tự tương đồng
trên ngân hàng trình tự DNA (Genbank) bằng công cụ trực tuyến là BLAST. Các trình tự
DNA sẽ được khảo sát phân bố nucleotide, kiểm tra các giả thuyết và thử mô hình tiến
hóa. Kết quả khảo sát sẽ được sử dụng làm tham số đầu vào để xây dựng cây phát sinh
chủng loại theo phương pháp: Xác suất tối đa (ML), bằng các phần mềm MEGA 6.0.6
(Tamura et al., 2007).
244 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Sử dụng máy đo Peakmeter PM6508 để xác định các thông số về nhiệt độ trong và
ngoài nhà yến. Quan sát hoạt động bay đi, bay về nhà yến của chim yến và sử dụng
camera hồng ngoại lắp trong nhà yến kết nối màn hình để quan sát hoạt động của chim yến
trong nhà yến.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hình thái
Dựa trên phân tích số liệu 30 mẫu yến nhà thu ở Thanh Hóa và Hải Phòng, đặc điểm
hình thái ngoài của chim yến ở khu vực nghiên cứu đã được mô tả chi tiết.
Chim trưởng thành (Hình 1), lông mặt lưng có màu nâu đen nhạt, lông cánh và đuôi,
đỉnh đầu có màu đen thẫm hơn, lông mặt bụng màu nhạt hơn và có phớt xám. Chim non,
các thân lông mặt bụng màu thẫm, hông có màu xám trắng. Mỏ màu đen và ngắn, có chiều
dài trung bình 4,5 mm (min. 4 mm - max. 5mm, n = 30). Chiều dài cánh 115 mm (min. 95
mm - max. 125 mm, n = 30), lông cánh thứ cấp gồm 7 lông, lông cánh sơ cấp gồm 10
lông. Lông đuôi nhọn và chẻ sâu có chiều dài trung bình 51 mm, lông đuôi thứ cấp gồm
10 lông. Chân có màu nâu gồm có 4 ngón, 3 ngón hướng trước, 1 ngón hướng sau. Chiều
dài cẳng chân trung bình 11 mm, ống chân trung bình 21 mm, móng chân trung bình 4
mm. Khối lượng trung bình của chim yến 14,8 g (min.14,5 g - max.15,1 g, n = 30). Trong
khi đó khối lượng trung bình của chim yến ở phía Nam là 13,2 g (Lê Hữu Hoàng và nnk.,
2015).
Hình 1. Hình thái ngoài chim yến thu ở
Thanh Hóa
Hình 2. Một mẫu chim yến nhà có màu lông
đột biến ở Thanh Hóa (Ảnh. Nguyễn Văn Hòa)
So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hoàng và nnk. (2015) về quần thể chim
yến ở phía Nam thì quần thể chim yến ở khu vực phía Bắc có khối lượng trung bình (14,8
g) lớn hơn chim yến sống ở phía Nam (13,2 g).
Tại nhà yến ở xã Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn, đã ghi nhận một mẫu chim yến
có bộ lông khác so với quần thể. Đầu mút lông cánh con ở hai bên cánh có màu trắng.
Đồng thời có vạch trắng ngang ở trán và đỉnh đầu (Hình 2). Đây có thể là một dạng biến dị
làm thay đổi hình thái bộ lông.
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 245
3.2. Đặc điểm di truyền
Đã giải trình tự một đoạn gen cytochrome b (cytB) có chiều dài 650 bp của 03 mẫu
chim yến (01 mẫu thu ở Thanh Hóa có ký hiệu NTH1 và 02 mẫu thu ở TP Hải Phòng có
ký hiệu NHP2, NHP) sau khi cắt mồi ở 02 đầu đoạn gen nghiên cứu có chiều dài 606 bp.
Đối chiếu các trình tự DNA của các mẫu vật này với cơ sở dữ liệu trình tự DNA
(Genbank) bằng chương trình BLAST cho thấy các trình tự DNA thu được có sự tương
đồng rất cao (từ 100%) với các trình tự gen cytochrome b của loài Aerodramus fuciphagus
(các trình tự có mã hiệu AY294429, AY135631, AY135632). Kết quả này cho thấy đã ghi
nhận được gen đích, để làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu chúng tôi sử dụng kết quả giải trình
tự và tham khảo các trình tự trên Genbank để xây dựng cây phát sinh chủng loại Cây phát
sinh chủng loại ở hình được xây dựng dựa trên mô hình thay thế nucleotide HKY
(Hasegawa-Kishino-Yano) có chỉ số (BIC = 2680.254, AICc = 2318.559, -lnL =
1111.110, R=8.78Base frequencies (A = 0.273, C = 0.358, G = 0.138, T = 0.231) được thể
hiện ở Hình 3.
JN709927.A.f.amechanus.NBD6
JN709928.A.f.amechanus.NBD7
NTH1
JN709922.A.f.amechanus.NBD
JN709931.A.f.amechanus.NDN2
JN709930.A.f.amechanus.NDN1
JN709932.A.f.amechanus.NDN3
KR818757.A.fuciphagus.AF-M-P8
JN709929.A.f.amechanus.NKH
NHP2
NHP3
KR818779.A.fuciphagus.AF-EBN-C2
KR818751.A.fuciphagus.AF-N-S3
JN709906.A.germani.DQN1
JN709910.A.f.germani.DBD
JN709917.A.f.germani.DBD1
JN709918.A.f.germani.N-DBD2
JN709919.A.f.germani.DKH1
KR818782.A.maximus
Hình 3. Cây phát sinh chủng loại ML của các trình tự nghiên cứu với các trình tự tham khảo.
Số ở gốc nhánh là giá trị bootstrap với 1000 lần lặp lại
Trên Hình 3 cây phát sinh chủng loại tạo thành nhánh chung gốc.
Nhánh 1 là một nhánh lớn lại tập chung 3 trình tự nghiên cứu và 7 trình tự chim yến
nhà thu mẫu ở Việt Nam và được định danh là A. f. amechanus (Oberholser, 1912) với giá
trị bootrap 75%. Ngoài ra nhóm này còn có 02 trình tự tham khảo tương đồng 100% với
246 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
các trình tự có mã hiệu KR818757, được thu mẫu ở bang Terengganu, Johor (phía Nam
bán đảo Malaysia) nơi ghi nhận có sự phân bố của phân loài A. f. amechanus (Oberholser,
1912).
Nhánh 2 nhánh còn lại gồm một nhánh mang 4 Hap thuộc nhóm chim yến thu mẫu ở
các đảo ngoài khơi của nước ta và được định danh là A. f. germani ở Malaysia, với giá trị
bootrap rất cao 90%.
Do đó, kết hợp đặc điểm hình thái với kết quả phân tích về di truyền dự đoán rằng
các quần đàn chim yến nhà tại các tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hải Phòng trong nghiên
cứu này thuộc phân loài Aerodramus fuciphagus amechanus (Oberholser, 1912). Kết quả
nghiên cứu đã mở rộng vùng phân bố của phân loài này ở 2 địa phương là tỉnh Thanh Hóa
và thành phố Hải Phòng.
3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới quần đàn Yến nhà
Chim yến nhà mở rộng vùng phân bố lên phía Bắc với khí hậu phân biệt 4 mùa trong
năm. Mùa đông ở phía Bắc nhiệt độ xuống rất thấp có thời điểm dưới 10 oC và kéo dài
trong nhiều ngày. Nhiệt độ này không phù hợp với nhiều loài chim trong đó có chim yến.
Đồng thời lượng côn trùng ở ngoài thiên nhiên trong mùa lạnh cũng giảm nhiều. Khả năng
sống sót cũng như tỉ lệ chim chết khi thay đổi nhiệt độ môi trường vùng sống của chim
yến ở các tỉnh miền Bắc tăng dần khi nhiệt độ giảm xuống thấp (Hình 4).
0
20
40
60
80
100
4-6˚C 7-9˚C 10-14˚C 15 - 39˚C
T
ỉ
lệ
c
h
im
y
ến
c
h
ết
(
%
)
Nhiệt độ (˚C)
Hình 4. Tỉ lệ chim chết trong một hộ nhà nuôi yến ở Thanh Hóa năm 2016
Kết quả điều tra tại Hải Phòng và Thanh Hóa cho thấy nhiệt độ môi trường ảnh hưởng
rất lớn tới sự sống sót của quần thể yến nhà. Trong khoảng nhiệt độ từ 15 oC - 39 oC không
phát hiện thấy chim yến chết trong nhà. Nếu nhiệt độ giảm xuống chỉ còn từ 7 oC - 15 oC
yến nhà bắt đầu chết, thậm chí nếu nhiệt độ xuống từ dưới 7 oC chim yến chết gần như
100% trong nhà yến (Hình 6).
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 247
Nghiên cứu vào năm 2016: Tại Hải Phòng, ngày 24/01 nhiệt độ là 7 oC, có những
nơi nhiệt độ hạ xuống thấp nhất tới 4,2 oC chim yến tại các nhà nuôi đã có dấu hiệu chết
hàng loạt. Tại Thanh Hóa, ngày 23/01 nhiệt độ ban ngày 14 oC, nhiệt độ ban đêm là 10 oC
chim yến chưa chết. Sáng ngày 24 đến ngày 25/01 nhiệt độ giảm xuống 6 oC có một nửa
số chim bắt đầu có hiện tượng bu lại trong nhà yến không bay ra ngoài kiếm ăn. Thời tiết
ven biển thời gian này, gió cấp 9, cấp 10 nên chim nếu bay ra ngoài cũng có thể bị gió
quật chết. Đến ngày 26/01 nhiệt độ ngoài trời tăng lên 7 - 8 oC, các chủ nhà yến đã sử
dụng điều hòa và lò sưởi để điều chỉnh nhiệt độ trong nhà yến ở khoảng 17 -19 oC, độ ẩm
trong phòng 60 - 62%. Tuy nhiên, qua một đêm lượng chim yến chết trong nhà mất
khoảng 80% chỉ còn lại khoảng 20% sống sót. Ngày 27/01 nhiệt độ thời tiết vẫn giữ là
8oC, điều hòa để nóng 30 oC, lò sưởi để nóng hết công suất nhưng không cứu được, lượng
chim chết khoảng 95% chỉ còn 5% còn sống. Tại Thanh Hóa ngày 28/01 khi nhiệt độ môi
trường là 80C thì các nhà yến chim chết gần hết. Nhà có số lượng chim nhiều nhất khi
chúng tôi đến khảo sát vào mùng 1/1/2017 có số lượng chim khoảng trên 1.000 cá thể thì
sau đợt rét đậm, rét hại chỉ còn lác đác 2 đến 3 cá thể bay trong phòng. Nhà yến trước đó
có khoảng 300 - 400 cá thể chim yến thì sau đợt rét không còn một cá thể nào. Chim yến
có khả năng thích nghi kém với nhiệt độ môi trường sống thấp. Hơn thế với các loài chim
bay liên tục, cường độ trao đổi chất lớn, nhu cầu thức ăn cao như chim yến thì chỉ cần một
ngày không đi kiếm thức ăn cũng có thể khiến chim chết vì đói. Tập tính của chim yến là
bắt mồi khi bay, do đó việc bổ sung thức ăn tĩnh cho chim yến trong nhà yến khi chim
không ra ngoài cũng không đáp ứng được.
Quan sát tập tính đi kiếm ăn của chim yến của chúng tôi ghi nhận vào mùa đông
nhiệt độ môi trường lạnh 18 - 24 oC chim bắt đầu đi kiếm ăn lúc 6h00 - 7h35, khi nhiệt độ
môi trường xuống 10 - 15 oC chim bắt đầu đi kiếm ăn muộn hơn khoảng từ 7h00 - 9h00.
Khi nhiệt độ càng giảm, chim yến đi kiếm ăn càng muộn và rải rác. Khi nhiệt độ xuống
dưới 10 oC chim sẽ rất hạn chế bay ra ngoài kiếm ăn. Nếu nhiệt độ thấp tiếp tục duy trì,
chim không ra ngoài kiếm ăn được sẽ bị dẫn tới chết hàng loạt. Như vậy có thể thấy năm
2016, các nhà yến ở phía Bắc rơi vào tình trạng yến nhà chết hoàn toàn do đợt rét đậm kéo
dài bắt đầu từ ngày 22- 30/1/2016. Trong khoảng thời gian rất ngắn là 5 ngày mặc dù các
nhà yến ở tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hải Phòng đã cải tiến lắp thêm điều hòa không
khí (Hình 3) hoặc lò đốt hơi nước, lò sưởi để nâng nhiệt độ trong nhà yến nhưng số lượng
chim yến ở Thanh Hóa và Hải Phòng vẫn bị chết hàng loạt (Hình 4).
248 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Hình 5. Hệ thống điều hòa nhiệt độ của
nhà nuôi yến ở Thanh Hóa
Hình 6. Chim yến chết do rét đậm, rét hại tại
Thanh Hóa tháng 1/2016
Cho đến nay, nhiệt độ môi trường quá lạnh vào mùa đông ở miền Bắc vẫn là một trở
ngại hạn chế sự sống sót và phát triển của đàn chim yến nhà. Chim yến ở Thanh Hóa và
Hải Phòng đã có sự thích nghi với nhiệt độ lạnh vào mùa đông ở miền Bắc. Nhưng nếu
nhiệt độ xuống thấp dưới 10 oC thì chim không thể chịu đựng được và trong một vài ngày
sẽ chết hàng loạt. Vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu để khắc phục nhằm phát triển
bền vững quần đàn chim yến nhà ở miền Bắc nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
4. KẾT LUẬN
Trên cơ sở mô tả đặc điểm hình thái và giải trình tự một phần gen cytochrome b
thuộc hệ gen ty thể có chiều dài 606 bp từ 03 mẫu chim yến cư trú trong nhà yến ở tỉnh
Thanh Hóa và thành phố Hải Phòng, nghiên cứu đã xác định chim yến nhà ở đây thuộc
phân loài Aerodramus fuciphagus amechanus (Oberholser, 1912). Với kết quả này đã mở
rộng vùng phân bố của phân loài yến nhà ra tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hải Phòng.
Nhiệt độ môi trường thấp là yếu tố hạn chế sự sống sót của chim yến nhà ở miền
Bắc. Nghiên cứu tại Thanh Hóa và Hải Phòng cho thấy nếu nhiệt độ môi trường giảm
xuống 6 - 8 oC trong hai, ba ngày có thể khiến chim yến chết hàng loạt. Một số giải pháp
làm ấm nhà yến đã được áp dụng có hiệu quả vào mùa đông nhưng chưa khắc phục được
việc cung cấp thức ăn mồi bay bổ sung cho chim trong mùa đông ở miền Bắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chantler P., 1999. Family Apodidae (swifts), Hoyo J. D., Elliott A., Sargatal J. eds Handbook of
the birds of the world, Barcelona: Lynx Editions, 5, 388-457.
Phach N. Q., & Voisin J. F., 2007. On an ecological form of the white nest swiftlet Aerodramus
fuciphagus (Aves, Apodidae) breeding in houses in Viêtnam, Revue Ecologique (Terre and
Vie), 62: 49-57.
Nguyễn Khoa Diệu Thu, 2013. Chim yến và kỹ thuật nuôi lấy tổ, tái bản lần thứu 1 có bổ sung và
chỉnh sửa. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
PHẦN I. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 249
Công ty Yến sào Khánh Hòa, 2017. Kỷ yếu Hội thảo Phát triển bền vững ngành nghề yến sào Việt Nam.
Lê Hữu Hoàng, Đặng Thúy Bình, Nguyễn Thị Anh Thư, 2014. Nghiên cứu đặc điểm di truyền
phân loài Chim yến (Aerodramus fuciphagus) tại Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, 2, 77-82.
Hồ Thị Loan, Nguyễn Giang Sơn, Đặng Tất Thế, Nguyễn Lân Hùng Sơn, 2015. Mối quan hệ di
truyền của một số quần thể Chim yến sống ngoài đảo và trong đất liền ở Việt Nam. Tạp chí
Sinh học, tập 37(2), 228-235.
Võ Quý, 1975. Chim Việt Nam, hình thái và phân loại, tập I. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật.
Genbank:
Tamura K., Dudley J., Nei M., Kumar S., 2013. MEGA6: Molecular Evolutionary Genetics
Analysis (MEGA) software version 6.0.6.
Lê Hữu Hoàng (chủ biên) và nnk., 2015. Kỹ thuật nuôi chim yến, khoa học và thực tiễn. Nxb.
Khoa học và Kỹ thuật.
CLASSIFICATION OF EDIBLE-NEST SWIFTLET FARMING IN NORTHERN OF
VIETNAM AND BIRD SURVIVE COLD WINTER
Vu Huyen Trang1, Ho Thi Loan2, Nguyen Lan Hung Son1,*, Hoang Ngoc Hung1,3
Abstract: From 2003-2004, swiftlet nests began to appear naturally in the
houses in Ninh Thuan province and Khanh Hoa province. Up to now, with the
application of swiftlet farming technology, swiftlet farming has developed and
the population of swiftlet has expanded to the Northern provinces. On the basis
of describing morphological characteristics and sequencing part of cytochrome b
gene of mitochondrial genome with the length of 606 bp from 3 samples
collected from the swiftlet farms in Thanh Hoa province and Hai Phong city.
From the results, the swiftlet living in swiftlet houses has been identified as
subspecies of Aerodramus fuciphagus amechanus (Oberholser, 1912). It
suggested that the distribution of the subspecies of swiftlet has been expanded
to Thanh Hoa province and Hai Phong city. Low ambient temperature is a factor
limiting the survival of swiftlet farming in the Northern of Vietnam. Research in
Thanh Hoa and Hai Phong shows that if the ambient temperature drops to 6-80C
in two or three days, swiftlet flock could be massively killed. Some solutions to
warm swiftlet have been applied effectively in the winter but have not overcome
the provision of additional fly bait food for birds in winter in the Northern of
Vietnam.
Keywords: Aerodramus fuciphagus amechanus, edible-nest swiftlet,
temperature, winter, Hai Phong, Thanh Hoa.
1Hanoi National University of Education
2Institute of Ecology and Biological Resource, Vietnam Academy of Science and Technology
3Hong Duc University
*Email: sonnlh@hnue.edu.vn