Khuôn ngoại bào (ECM – extracellular matrix) là chất nền bao bên ngoài các tế bào của mô, cơ quan. Chúng là một phức hợp các phân tử protein cấu trúc, protein chức năng xếp thành cấu trúc không gian 3 chiều. Cấu trúc không gian này phù hợp, thuận lợi với chức năng của mỗi mô. ECM giống như một hệ thống dẫn truyền thông tin (tín hiệu) giữa các tế bào kế cận nhau hay giữa tế bào với chính ECM của mô
17 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4586 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định nghĩa và thành phần khuôn ngoại bào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
1.1. Định nghĩa và thành phần khuôn ngoại bào
1.1.1. Định nghĩa khuôn ngoại bào
Khuôn ngoại bào (ECM – extracellular matrix) là chất nền bao bên ngoài các
tế bào của mô, cơ quan. Chúng là một phức hợp các phân tử protein cấu trúc, protein
chức năng xếp thành cấu trúc không gian 3 chiều. Cấu trúc không gian này phù hợp,
thuận lợi với chức năng của mỗi mô. ECM giống như một hệ thống dẫn truyền thông
tin (tín hiệu) giữa các tế bào kế cận nhau hay giữa tế bào với chính ECM của mô [9].
Hình 1.1. Cấu trúc ECM
(nguồn:
ECM giúp các tế bào bám dính, trải rộng, tăng sinh, di cư và biệt hóa. Chúng
liên kết các mô với nhau và là nơi chứa nhiều hormon kiểm soát sự tăng trưởng
cũng như biệt hóa của tế bào. ECM trong cơ thể sống luôn trong trạng thái hoạt
động, có thể trao đổi qua lại và thay đổi để đáp ứng lại những thay đổi của môi
trường như sự thay đổi oxy hay sự tăng trọng lượng cơ thể [9].
4
Hình 1.2. ECM của một số mô
(
1.1.2. Thành phần ECM
Thành phần tạo nên ECM là các phân tử protein được chia làm 3 nhóm: nhóm
protein cấu trúc, nhóm chức năng và nhóm các phân tử thụ thể bề mặt tế bào. Tuy
nhiên, sự phân chia thành phần ECM về chức năng và cấu trúc không rõ ràng, vì có
nhiều phân tử giữ cả vai trò cấu trúc và chức năng. Ví dụ, cả collagen và fibronectin
đều có vai trò duy trì cấu trúc mô, tuy nhiên chúng còn có thêm nhiều chức năng
khác, như giúp tế bào bám và di chuyển để kích thích hoặc ức chế sự tạo mạch [9].
a. Nhóm protein cấu trúc
Collagen
Collagen là protein chiếm nhiều nhất trong ECM của động vật có vú. Hơn
90% trọng lượng khô của ECM ở hầu hết các mô và cơ quan là collagen. Collagen
được tạo ra trong tế bào ở dạng procollagen. Procollagen có khối lượng phân tử cao
hơn so với collagen do nó kéo dài ở cả hai đầu NH2 và COOH [68].
Collagen hiện có hơn 20 dạng và mỗi dạng có một chức năng sinh học riêng.
Trong tự nhiên, collagen liên kết chặt với glycosylated proteins, các nhân tố tăng
trưởng và một số protein cấu trúc như elastin và laminin để tạo nên đặc tính duy
5
nhất của mô Các collagen dạng này tồn tại trong ECM của hầu hết các mô. Sự xen
lẫn các dạng collagen khác nhau trong mô tạo nên những đặc tính cơ học và đặc
tính sinh lí cho ECM, đồng thời tạo nên tập hợp các thụ thể giúp cho sự tương tác
giữa ECM với các quần thể tế bào xung quanh [17], [34], [74].
Hình 1. 3. Các cấp độ cấu trúc của collagen. (a) sợi collagen quan sát bình thường, (b) sợi
collagen chứa nhiều tơ collagen, (c) mỗi phân tử collagen là một xoắn gồm 3 chuỗi α, (d)
ba chuỗi α bện vào nhau với đầu tận cùng liên kết lỏng lẻo.
(Nguồn:
Elastin
Elastin là protein chủ yếu giữ vai trò đàn hồi và giúp liên kết định hướng các
mô. Hàm lượng elastin có thể thay đổi từ 2% trọng lượng khô của da đến hơn 70%
trong các dây chằng gáy của động vật ăn cỏ. Chức năng chính của elastin là tạo tính
đàn hồi và độ đàn hồi cho mô. Tuy nhiên, elastin còn tăng cường sự bám dính của tế
bào và elastin peptides đã được chứng minh là tạo nên tính hóa hướng động đối với
tế bào. Tropoelastin là phân tử đơn vị hòa tan của elastin. Tuy nhiên do sự nối ghép
các phân tử đơn vị đã tạo nên nhiều dạng elastin. Phân tử đơn vị được tạo ra và tiết
vào không gian ngoại bào, kết hợp với các thành phần vi sợi tạo thành sợi elastin.
6
Các phân tử polypeptide của elastin được liên kết với nhau bằng liên kêt kị nước,
lặp đi lặp lại. Các liên kết giữa lysine là các liên kết cộng hóa trị giúp ổn định cấu
trúc sợi đàn hồi của elastin [9].
b. Phức hợp protein - polysaccharide
Proteoglycan
Proteoglycan gồm nhiều phân tử glycosaminoglycan (GAGs) liên kết với lõi
protein. Glycosaminoglycan phụ thuộc vào dạng mô, tuổi của cơ thể và môi trường
thu nhận ECM. Các phân tử GAGs bám vào các nhân tố tăng trưởng, các cytokines,
thúc đẩy quá trình giữ nước và tạo nên đặc tính gel cho ECM. Nhờ đặc tính bám
dính của heparin trên nhiều thụ thể bề mặt tế bào và trên các nhân tố tăng trưởng đã
tạo nên phân tử heparin giàu glycosaminoglycan – là thành phần quan trọng trong
ECM giúp tế bào tăng trưởng. Các phân tử GAGs hiện diện trong ECM gồm có
chondroitin sulfates, heparin, heparan sulfate, và hyaluronic acid [9], [32], [40].
c. Nhóm protein bám dính
Fibronectin
Fibronectin là thành phần chiếm tỉ lệ cao đứng thứ 2 sau collagen trong
ECM. Fibronectin tồn tại ở dạng hòa tan, dạng sợi và là thụ thể bám dính của nhiều
loại tế bào [49], [50], [61], [62].
Đặc trưng của fibronectin là tạo ra lớp chất nền giúp tế bào bám dính khi
nuôi cấy in vitro. Chúng thường được sử dụng như vật liệu bao phủ các giàn giáo
sinh học để tăng cường tính tương hợp sinh học với cơ thể chủ. Fibronectin là phân
tử giàu Arg-Gly-Asp, bộ 3 peptide này có vai trò quan trọng trong sự bám dính của
tế bào [74].
Laminin
Laminin là một protein bám dính được tìm thấy trên màng nền của ECM .
Cấu trúc của laminin gồm ba chuỗi polypeptide liên kết với nhau. Laminin tương
tác rộng rãi với ECM như là một giàn giáo để tái tạo cấu trúc mô. Mạch β1 integrin
7
có ảnh hưởng gián tiếp đến tế bào gốc tạo máu khi tương tác với fibronectin và
laminin. Khi sử dụng ECM như một giàn giáo để tái tạo mô và cơ quan ở người
trưởng thành thì không thấy rõ vai trò của laminin, nhưng nó có vai trò quan trọng
trong các quá trình sinh học phát triển, đó là các phân tử thiết yếu cần cho sự tự tập
hợp các quần thể tế bào để hình thành mô và chống lại sự tạo thành mô sẹo [51],
[61], [70].
Integrin
Intergin là các thụ thể trên bề mặt tế bào mà gắn trên ECM. Fibronectin,
laminin và các thành phần khác của ECM gắn trên các thụ thể của phân tử
glycoproteins trên bề mặt tế bào được gọi là integrin. Integrin giúp hợp nhất xương
tế bào và ECM [19], [54].
CAMs
CAMs là các phân tử protein xuyên màng, có vai trò trong sự bám dính trực
tiếp hay gián tiếp giữa tế bào và tế bào, giữa tế bào và ECM. Những tương tác này
giúp gắn tế bào vào mô và thúc đẩy sự liên lạc giữa các tế bào với môi trường xung
quanh [17], [64].
d. Nhân tố tăng trưởng
Trên ECM có nhiều nhân tố tăng trưởng, bao gồm cả các nhân tố tăng trưởng
tế bào nội mô (VEGF), họ nhân tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGF), nhân tố tăng
trưởng thu nhận từ các tế bào đệm (SDF-1), nhân tố tăng trưởng tế bào biểu mô
(EGF), nhân tố tăng trưởng biến đổi β (TGF- β), nhân tố tăng trưởng tế bào sừng
(KGF), nhân tố tăng trưởng tế bào gan (HGF), nhân tố tăng trưởng phân lập từ tiểu
cầu (PDGF) và protein tạo hình xương. Các nhân tố tăng trưởng này là các phân tử
sinh học hoạt động. Khi sử dụng ECM ở trạng thái tự nhiên làm giàn giáo giúp tế
bào tăng trưởng và biệt hóa, có thuận lợi về sự hiện diện của tất cả các nhân tố tăng
trưởng giống như trong mô tự nhiên [18], [32], [45], [56].
8
1.2. Quy trình thu nhận ECM
ECM có thể được thu nhận từ rất nhiều mô như van tim, mạch máu, da, thần
kinh, cơ xương, gân, dây chằng, mô liên kết ruột non (SIS), bàng quang và gan. Để
thu được ECM tự nhiên đòi hỏi loại hết các tế bào trong mô, cơ quan. Mục đích của
quá trình này nhằm làm giảm phản ứng viêm hoặc đáp ứng miễn dịch, đồng thời
giảm thiểu các tác động bất lợi lên thành phần, hoạt tính sinh học và đặc tính cơ học
của ECM được thu nhận [12], [13], [22], [30], [38], [48], [60], [63], [66].
Từ một mô tự nhiên, để thu được ECM đòi hỏi phải có sự kết hợp của các
phương pháp vật lí, hóa học và enzyme để loại hết thành phần tế bào. Tiếp theo sự
loại bỏ tế bào, ECM được tiệt trùng trước khi sử dụng như giàn giáo sinh học. Hai
phương pháp tiệt trùng phổ biến là chiếu xạ (tia gamma) và khí ethelyne oxide [33].
1.2.1. Các phương pháp loại tế bào
Để quá trình loại tế bào khỏi mô đạt hiệu quả cao, phải có sự kết hợp các
phương pháp vật lí, hóa học và enzyme. Nhìn chung, một quy trình loại tế bào
thường trải qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên là li giải màng tế bào, bước tiếp theo là xử
lí bằng enzym để tách các thành phần tế bào khỏi mô và cuối cùng là loại bỏ các
mảnh vụn tế bào [35].
a. Phương pháp vật lí
Phương pháp vật lí thường sử dụng để loại tế bào khỏi mô bao gồm làm lạnh,
loại tế bào bằng áp suất và lắc. Phương pháp làm lạnh nhanh thường sử dụng để loại
bỏ tế bào của mô gân, dây chằng và mô thần kinh. Mô được lạnh nhanh, trong mô
sẽ hình thành tinh thể đá nội bào và chúng sẽ phá vỡ màng tế bào và li giải tế bào.
Do vậy phải kiểm soát cẩn thận tốc độ thay đổi nhiệt độ để ngăn cản các tinh thể đá
phá vỡ ECM [43], [72].
Ngoài ra tế bào có thể được li giải bằng cách tạo áp lực trực tiếp lên mô,
nhưng phương pháp này chỉ có hiệu quả đối với các mô, cơ quan mà ECM không
dầy đặc. Các lực cơ học có thể được sử dụng để tách lớp các mô, cơ quan có cấu
9
trúc mô tự nhiên gồm nhiều lớp như ruột non, bàng quang. Phương pháp này có
hiệu quả và ít gây tổn hại đến cấu trúc 3 chiều của ECM.
Biện pháp cơ học thường được sử dụng kết hợp với phương pháp hóa học để
phá vỡ tế bào và loại các thành phần tế bào ra khỏi ECM. Ngoài ra có thể kết hợp
các tác động cơ học cùng với sóng âm để phá vỡ tế bào. Chưa có nghiên cứu nào
xác định cường độ hoặc tần số tối ưu của sóng âm để phá vỡ tế bào, nhưng mỗi
dạng sóng cụ thể đều có tác động lên sự loại bỏ các thành phần tế bào [69].
b. Phương pháp hóa học
Dung dịch kiềm và acid
Kiềm và acid thường được sử dụng để hòa tan tế bào chất cũng như để loại
bỏ acid nucleic. Acetic acid, peracetic acid (PAA), hydrochloric acid, sulfuric acid
và ammonium hydroxide (NH4OH) có tác dụng phá vỡ màng tế bào và màng của
các bào quan nội bào. PAA được sử dụng ở nồng độ 0,10 – 0,15% trọng lượng/thể
tích để thu ECM của mô ruột non và bàng quang lợn. PAA đã được chứng minh là
không gây tác động có hại lên đặc tính cơ học của ECM. Mô sau khi được xử lí
bằng PAA, ECM của mô vẫn duy trì được cấu trúc và chức năng của các nhân tố
tăng trưởng hiện diện trong mô trước đó. Cả SIS và UBM (ECM bàng quang lợn)
đã được chứng minh là chất nền tuyệt vời trong nuôi cấy tế bào in vitro và đã ứng
dụng thành công in vivo [11], [14], [39], [41], [53].
Chất tẩy không ion
Chất tẩy không ion cũng thường được sử dụng trong các quy trình loại tế bào
khỏi mô. Các chất này phá vỡ liên kết giữa lipid – lipid, lipid – protein và giữ
nguyên liên kết protein – protein. Do vậy, sau khi xử lí mô bằng các chất tẩy này,
protein trong mô vẫn giữ nguyên chức năng. Triton X-100 là chất tẩy không chứa
ion được sử dụng rộng rãi để loại bỏ tế bào. Sự tiếp xúc giữa mô và Triton X-100 có
thể biến thiên từ vài giờ đến 14 ngày. Sau 24 giờ xử lí mô van tim bằng Triton X-
100 đã loại bỏ hoàn toàn tế bào mà vẫn duy trì cấu trúc của van tim. Đối với các
10
thành phần ECM, Triton X-100 làm mất gần như hoàn toàn GAGs và làm giảm hàm
lượng laminin và fibronectin trong mô van tim [27], [60].
Các nghiên cứu khác cũng cho thấy Triton X-100 không có hiệu quả hoàn
toàn trong việc loại tế bào khỏi mạch máu, gân, dây chằng sau khi tiếp xúc với các
mô này lên đến 4 ngày. Gân khi được xử lí bằng Triton X-100 đã làm thay đổi sự
căng của các sợi collagen. Ngược lại, dây chằng khi xử lí bằng Triton X-100 đã
không ảnh hưởng đến sợi collagen. Mặc dù Triton X-100 là một hóa chất được sử
dụng nhiều để loại tế bào, nhưng hiệu quả của nó phụ thuộc vào mô được loại tế bào
và phụ thuộc vào các phương pháp kết hợp khác để loại bỏ tế bào [21], [70].
Chất tẩy có ion
Chất tẩy có ion có tác dụng hòa tan màng tế bào nhân và màng tế bào chất.
Chúng làm biến tính protein vì phá vỡ liên kết protein-protein. Hầu hết các chất tẩy
ion thường sử dụng là sodium dodecyl sulfate (SDS), sodium deoxycholate và
Triton X-200. SDS rất có hiệu quả trong việc loại bỏ các thành phần tế bào khỏi mô.
Chất này có xu hướng phá vỡ cấu trúc mô tự nhiên, làm giảm nồng độ GAGs nhưng
không làm mất tính nguyên vẹn của collagen. Sodium deoxycholate cũng có hiệu
quả trong việc loại bỏ các thành phần tế bào nhưng chúng có xu hướng phá vỡ cấu
trúc mô tự nhiên nhiều hơn so với SDS. Chúng thường được sử dụng kết hợp với
các chất tẩy zwitterionic để loại tế bào trong mô thần kinh. Tuy nhiên, chỉ có sự kết
hợp của Triton X-200 với chất tẩy zwitterionic cho hiệu quả loại tế bào hoàn toàn
trong mô thần kinh [44]
Tri (n-butyl) phosphate
Tri (n-butyl) phosphate (TBP) là một dung môi hữu cơ. Chúng thường được
sử dụng để bất hoạt virus trong máu mà không gây ảnh hưởng đến hoạt động của
các nhân tố đông máu. Gần đây, TBP được sử dụng như là tác nhân hỗ trợ để loại
bỏ tế bào trong mô gân và dây chằng. Xử lí bằng TBP đã loại bỏ hoàn toàn các tế
bào trong mô gân đuôi chuột mà không ảnh hưởng đến sức căng của sợi collagens.
11
TBP hứa hẹn là một tác nhân phá tế bào ít gây ảnh hưởng đến đặc tính cơ học của
ECM và đang được nghiên cứu sâu hơn [43].
Xử lí nhược trương và ưu trương
Phương pháp tạo sốc thẩm thấu bằng dung dịch nhược trương hoặc dung
dịch ưu trương thường được sử dụng để phá tế bào trong mô và cơ quan. Khi xử lí
mô trong dung dịch nhược trương (10mM Trizma HCl, 5mM EDTA) trong 11 giờ.
Sau đó xử lí bằng dung dịch ưu trương (50mM TrizmaHCl, 1M NaCl, 10mM
EDTA) trong 11 giờ có thể phá vỡ tế bào, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn các
thành phần tế bào khỏi mô. Do vậy khi xử lí mô bằng phương pháp này thường phải
kết hợp với các phương pháp dùng enzyme hoặc hóa chất để loại bỏ hoàn toàn các
mảnh vụn tế bào. Loại bỏ các mảnh DNA khỏi mô là một khó khăn, bởi vì DNA có
xu hướng bám lên các protein trên ECM [29], [72].
Tác nhân Chelat
Các tác nhân Chelat như EDTA và EGTA, là phân tử dạng vòng phức tạp có
một ion kim loại liên kết chặt ở trung tâm. Như đã biết, các ion Ca2+ và Mg2+ thì cần
thiết giúp tế bào bám lên collagen và fibronectin tại các thụ thể Arg–Gly–Asp. Sự
ràng buộc bởi các ion này hiện diện trên các tế bào bám dính trên ECM đã tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình loại bỏ tế bào khỏi mô. EDTA thường được sử dụng kết
hợp với trypsin [36].
c. Phương pháp enzyme
Phương pháp sử dụng enzyme để loại tế bào bao gồm sử dụng các enzyme
phân hủy protein, tác nhân chelating Ca và enzyme phân hủy nhân tế bào. Trypsin
là enzyme phân hủy protein phổ biến được sử dụng để phá tế bào. Chúng bẻ gãy các
cầu nối cacbon trên arginine và lysine. Khi đã phá vỡ hết các liên kết này thì sẽ phá
các liên kết carbon trên proline. Enzyme thường sử dụng để thủy phân nhân tế bào
là endonucleases và exonucleases. Endonucleases thủy phân các cầu nối bên trong
chuỗi DNA hoặc RNA. Exonucleases thủy phân các liên kết ở đầu cuối cùng của
DNA hoặc RNA. Kết quả cuối cùng là phân hủy DNA hoặc RNA [36]
12
d. Chất ức chế protease
Trong quá trình phá tế bào, một số enzyme phân hủy protein được giải phóng
ra khi tế bào bị vỡ. Trong suốt thời gian xử lí mẫu với các tác nhân hóa học, sự hiện
diện của các enzyme này có thể làm tổn hại các cấu trúc tự nhiên của ECM. Do vậy,
nên bổ sung vào dung dịch phá tế bào các chất ức chế protease như aprotonin và
leupeptin. Dung dịch đệm pH 7 - 8 cũng có thể ức chế nhiều protease [36]
1.2.2. Ảnh hưởng của nguồn mô đến quá trình loại tế bào
Hiệu quả của quá trình hoặc phương pháp loại tế bào khỏi mô phụ thuộc vào
nguồn mô sử dụng. Grauss và cộng sự (2003) đã chứng minh sử dụng một mình
trypsin để loại tế bào van động mạch chủ tim lợn thì không hiệu quả. Trong khi đó,
Schenke - Layland và cộng sự (2003) lại loại bỏ hoàn toàn các thành phần tế bào
của van động mạch phổi heo. Cartmell và Dunn (2000), Woods và Gratzer (2005)
nghiên cứu độc lập cách phá tế bào trên gân đuôi chuột và ACL heo đã thấy kết quả
loại tế bào khác nhau. Các nghiên cứu trên cho thấy hiệu quả loại tế bào phụ thuộc
vào nguồn mô, thành phần của mô, mật độ tế bào và các nhân tố khác. Đối với mỗi
mô sử dụng để loại tế bào đều được phải được nghiên cứu kỹ, điều này rất cần thiết
để tối ưu hóa quy trình phá tế bào mà không ảnh hưởng đến ECM thu nhận được
[21], [35], [59], [72].
1.2.3. Kiểm tra sự loại bỏ tế bào
Một số phương pháp nhuộm mô học thường được sử dụng để kiểm tra hiệu
quả của việc loại tế bào khỏi mô. Phương pháp nhuộm mô bằng Hematoxylin -
Eosin là phương pháp kiểm tra đầu tiên để xác định cấu trúc nhân và có thể quan sát
bằng mắt thường. Một trong các phương pháp nhuộm mô như Masson’s Trichome,
Movat’s Pentachrome hoặc Safrin O thường được sử dụng để kiểm tra sự hiện diện
của các thành phần tế bào chất và các phân tử ngoại bào khác nhau. Collagen khi
nhuộm PAS hoặc nhuộm Masson’s Trichome sẽ bắt màu hồng hoặc xanh tương ứng
với mỗi loại thuốc nhuộm. Phương pháp hóa mô miễn dịch cũng được sử dụng để
xác định các protein nội bào như actin và vimentin [72].
13
Kiểm tra sự hiện diện của DNA có thể thực hiện bằng cách nhuộm Hoechst,
trong đó phân tử huỳnh quang bám vào các nucleotide A, T trên các rãnh nhỏ của
phân tử DNA. Ngoài ra, propidium iodide và PicoGreen cũng được sử dụng để
kiểm tra sự hiện diện của DNA trong mẫu. Ngoài việc xác định các thành phần đã
loại bỏ, việc xác định các thành phần còn lại của ECM cũng rất cần thiết. Các
protein có vai trò bám dính như fibronectin, laminin, GAGs, các nhân tố tăng
trưởng, sợi elastic và collagens đều rất cần thiết để tế bào bám lên ECM trong in
vitro hoặc in vivo [35].
1.2.4. Loại bỏ các hóa chất dư trên ECM
Các phương pháp loại tế bào hầu hết đều sử dụng hóa chất có thể gây tổn hại
đến tế bào. Nếu hóa chất sử dụng vẫn còn lại trong ECM với nồng độ cao sau khi đã
xử lí, chúng có thể gây độc đối với cơ thể chủ khi ECM được cấy ghép in vivo. Do
vậy việc định lượng các hóa chất còn dư trong ECM là rất cần thiết.
Tóm lại, để hoàn thành quá trình loại tế bào của hầu hết các mô thì đòi hỏi
phải có sự kết hợp của các phương pháp vật lí, enzym và hóa học. Ngoài ra quy
trình xử lí mô còn phụ thuộc vào nguồn mô quan tâm. Nhìn chung mọi qui trình đều
mong muốn sử dụng lực tác động nhẹ nhất để loại hết tế bào khỏi mô mà không phá
vỡ thành phần cấu trúc và chức năng của ECM.
1.3. Một số đặc tính sinh học của ECM
Các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy vai trò quan trọng của sự tự
phân hủy ECM trong quá trình phục hồi tổn thương. Sự tự phân hủy của ECM là
nhân tố tác động sớm nhất đến quá trình phục hồi tổn thương của mô. Ngoài ra sự
tự phân hủy của ECM cũng tạo thành các chuỗi peptide kháng vi sinh, chất hóa
hướng động và sự tạo mạch [20], [58].
1.3.1. Đặc tính tự phân hủy
ECM có khả năng tự phân hủy nhanh sau khi cấy ghép vào mô chủ. Chúng
sẽ được thay thế từ từ thông qua các liên kết hóa học chéo. Sự thay thế này làm quá
14
trình tự phân hủy diễn ra từ từ. Nghiên cứu sử dụng 14C gắn với SIS - ECM để theo
dõi sự tự phân hủy của ECM khi điều trị tổn thương thành bàng quang. Phóng xạ
14C được phát hiện trong máu và trong bàng quang ngay sau khi có sự sửa chữa
bàng quang hay khi ECM bắt đầu phân hủy. SIS - ECM sẽ tự phân hủy khoảng 40 -
60% trên tổng số ECM được ghép tại vị trí cần tái tạo mô trong vòng 4 tuần. Sau 90
ngày ghép, 14C đã không còn trong bàng quang [53].
1.3.2. Đặc tính kháng khuẩn
Trong tự nhiên có nhiều phân tử peptide kháng khuẩn tồn tại phổ biến rộng
trong giới động thực vật. Sarikaya và cộng sự đã chứng minh thành phần của ECM
thu nhận từ mô liên kết ruột non (SIS) và niêm mạc bàng quang (UBM) lợn có hoạt
tính kháng đối với vi khuẩn gram dương và gram âm. Để kiểm tra hoạt tính kháng
khuẩn này, SIS và UBM lợn được thu nhận và phân tủy bằng cách sử dụng acid
loãng ở nhiệt độ. Sản phẩm của sự phân hủy này đưa vào môi trường nuôi cấy E.
coli hoặc S. aureus để kiểm tra sự tăng trưởng của chúng sau 24 giờ. Nhận thấy sản
phẩm phân hủy của SIS và UBM đều chống lại sự tăng trưởng của E. coli và S.
aureus trong 24 giờ [58].
1.3.3. Đặc tính hóa hướng động
Sự tự phân hủy của ECM cũng tạo ra các phân tử peptide có hoạt tính hóa
hướng động. Các phân tử peptide này được thu nhận từ SIS – ECM, có trọng lượng
khoảng 5 – 16 kDa. Chúng được chứng minh có t