Ngày nay, môi trường và ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề được các nước trên thế giới quan tâm đặc biệt. Bảo vệ môi trường trở thành vấn đề toàn cầu, là quốc sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, môi trường và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống con người đang diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Nguồn gốc của sự biến đổi này là các hoạt động kinh tế, phát triển của xã hội. Các hoạt động này một mặt có tác dụng cải thiện chất lượng cuộc sống con người, mặt khác lại gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái các môi trường thành phần.
Ở Việt Nam, công tác bảo vệ môi trường chỉ mới trong giai đoạn đầu, phần lớn các quy trình cũng như thiết bị công nghệ còn lạc hậu, sản xuất gia tăng nhưng yếu tố môi trường chưa được chú trọng. Trước thực trạng môi trường và sức ép của chính quyền, các cộng đồng dân cư thì nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp đã có những biện pháp và phương hướng để giảm lượng chất thải hoặc xử lý chúng trước khi thải vào môi trường.
Ngành chế biến thủy hải sản là một trong những ngành giàu tiềm năng của nước ta, Với bờ biển dài, hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, khí hậu nhiệt đới, ngành nuôi trồng và chế biến thủy hải sản là một lợi thế của Việt Nam, bước đầu đã tiếp cận được trình độ khu vực và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, đi kèm với các giá trị kinh tế đóng góp được, vấn đề ô nhiễm môi trường sinh ra trong quá trình nuôi trồng và đặc biệt là chế biến thủy hải sản ở Việt Nam cũng thực sự đáng báo động. Do đặc điểm công nghệ là sơ chế từ nguyên liệu thô, ngành chế biến thủy hải sản cần một lượng nước khá lớn, trung bình khoảng 50 – 70 m3 nước/tấn sản phẩm, dẫn đến sự hình thành một lượng nước thải gần tương đương. Ngoài ra, các chất thải rắn là phế liệu hay phụ phẩm sinh ra trong quá trình chế biến có bản chất là các chất hữu cơ dễ phân hủy gây mùi khó chịu cũng là một khía cạnh ô nhiễm đặc trưng trong các nhà máy chế biến thủy hải sản. Để nâng cao ý thức phần trách nhiệm trong việc gây ô nhiễm môi trường, ngành thuỷ sản cần có giải pháp cho vấn đề ô nhiễm bởi nước thải, khí thải, chất thải rắn để cùng các ngành sản xuất khác giảm mức độ tác động đến môi trường. Do đó, việc khảo sát để đánh giá đúng về hiện trạng môi trường ngành thủy hải sản là yêu cầu cấp thiết đặt ra.
Bến Tre với lợi thế bờ biển dài 65 km và hệ thống sông ngòi nội địa chằng chịt có tổng chiều dài hơn 3000 km. Vùng đất Bến Tre được hình thành bởi 3 dãy cù lao với 4 cửa sông chính của hệ thống sông MêKông đổ ra Biển Đông. Nguồn lợi thủy sản dồi dào được cung cấp từ các vùng nuôi thủy sản rộng hơn 60.000 ha với 3 loại hình sinh thái: mặn, lợ, ngọt và hơn 20.000 km2 vùng lãnh hải là tiềm năng quan trọng cho nghề khai thác, chế biến thủy sản. Vì vậy thủy hải sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển của nhà máy thì kéo theo nhiều vấn đề bức thiết cần giải quyết. Các nhà máy ra đời trong thời kỳ khi vấn đề môi trường chưa được quan tâm thích đáng, chưa có các hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường nên đến sự suy giảm chất lượng môi trường nghiêm trọng trong quá trình hoạt động của các nhà máy. Đặc biệt, sự phát thải lượng nước lớn chứa hàm lượng hữu cơ cao làm suy giảm chất lượng nước, đe dọa sự phát triển của các động vật thủy sinh và đời sống của nhân dân xung quanh khu vực tiếp nhận nguồn nước thải này.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu hiện trạng gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy chế biến thủy hải sản điển hình tại Bến Tre để có thể hoàn thiện hơn các giải pháp bảo vệ môi trường thích hợp là điều cần được quan tâm hàng đầu. Đó cũng là lý do để đề tài “ Khảo sát hiện trạng môi trường một số nhà máy chế biến thủy hải sản tỉnh Bến Tre” được ra đời
104 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Khảo sát hiện trạng môi trường một số nhà máy chế biến thủy hải sản tỉnh Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU
1.1. Lời nói đầu
Ngày nay, môi trường và ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề được các nước trên thế giới quan tâm đặc biệt. Bảo vệ môi trường trở thành vấn đề toàn cầu, là quốc sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, môi trường và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống con người đang diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Nguồn gốc của sự biến đổi này là các hoạt động kinh tế, phát triển của xã hội. Các hoạt động này một mặt có tác dụng cải thiện chất lượng cuộc sống con người, mặt khác lại gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái các môi trường thành phần.
Ở Việt Nam, công tác bảo vệ môi trường chỉ mới trong giai đoạn đầu, phần lớn các quy trình cũng như thiết bị công nghệ còn lạc hậu, sản xuất gia tăng nhưng yếu tố môi trường chưa được chú trọng. Trước thực trạng môi trường và sức ép của chính quyền, các cộng đồng dân cư thì nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp đã có những biện pháp và phương hướng để giảm lượng chất thải hoặc xử lý chúng trước khi thải vào môi trường.
Ngành chế biến thủy hải sản là một trong những ngành giàu tiềm năng của nước ta, Với bờ biển dài, hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, khí hậu nhiệt đới, ngành nuôi trồng và chế biến thủy hải sản là một lợi thế của Việt Nam, bước đầu đã tiếp cận được trình độ khu vực và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, đi kèm với các giá trị kinh tế đóng góp được, vấn đề ô nhiễm môi trường sinh ra trong quá trình nuôi trồng và đặc biệt là chế biến thủy hải sản ở Việt Nam cũng thực sự đáng báo động. Do đặc điểm công nghệ là sơ chế từ nguyên liệu thô, ngành chế biến thủy hải sản cần một lượng nước khá lớn, trung bình khoảng 50 – 70 m3 nước/tấn sản phẩm, dẫn đến sự hình thành một lượng nước thải gần tương đương. Ngoài ra, các chất thải rắn là phế liệu hay phụ phẩm sinh ra trong quá trình chế biến có bản chất là các chất hữu cơ dễ phân hủy gây mùi khó chịu cũng là một khía cạnh ô nhiễm đặc trưng trong các nhà máy chế biến thủy hải sản. Để nâng cao ý thức phần trách nhiệm trong việc gây ô nhiễm môi trường, ngành thuỷ sản cần có giải pháp cho vấn đề ô nhiễm bởi nước thải, khí thải, chất thải rắn… để cùng các ngành sản xuất khác giảm mức độ tác động đến môi trường. Do đó, việc khảo sát để đánh giá đúng về hiện trạng môi trường ngành thủy hải sản là yêu cầu cấp thiết đặt ra.
Bến Tre với lợi thế bờ biển dài 65 km và hệ thống sông ngòi nội địa chằng chịt có tổng chiều dài hơn 3000 km. Vùng đất Bến Tre được hình thành bởi 3 dãy cù lao với 4 cửa sông chính của hệ thống sông MêKông đổ ra Biển Đông. Nguồn lợi thủy sản dồi dào được cung cấp từ các vùng nuôi thủy sản rộng hơn 60.000 ha với 3 loại hình sinh thái: mặn, lợ, ngọt và hơn 20.000 km2 vùng lãnh hải là tiềm năng quan trọng cho nghề khai thác, chế biến thủy sản. Vì vậy thủy hải sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển của nhà máy thì kéo theo nhiều vấn đề bức thiết cần giải quyết. Các nhà máy ra đời trong thời kỳ khi vấn đề môi trường chưa được quan tâm thích đáng, chưa có các hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường nên đến sự suy giảm chất lượng môi trường nghiêm trọng trong quá trình hoạt động của các nhà máy. Đặc biệt, sự phát thải lượng nước lớn chứa hàm lượng hữu cơ cao làm suy giảm chất lượng nước, đe dọa sự phát triển của các động vật thủy sinh và đời sống của nhân dân xung quanh khu vực tiếp nhận nguồn nước thải này.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu hiện trạng gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy chế biến thủy hải sản điển hình tại Bến Tre để có thể hoàn thiện hơn các giải pháp bảo vệ môi trường thích hợp là điều cần được quan tâm hàng đầu. Đó cũng là lý do để đề tài “ Khảo sát hiện trạng môi trường một số nhà máy chế biến thủy hải sản tỉnh Bến Tre” được ra đời
1.2. Mục tiêu của đề tài
Khảo sát và đánh giá hiện trạng môi trường một số nhà máy chế biến thủy hải sản tại tỉnh Bến Tre, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm.
1.3. Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan về tỉnh Bến Tre
- Khảo sát hiện trạng môi trường tại một số nhà máy chế biến thủy hải sản điển hình trên địa bàn tỉnh Bến Tre
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường tại các cơ sở trên
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, lựa chọn, bổ cập các tài liệu có liên quan.
- Phương pháp khảo sát thực địa
- Phương pháp quan sát mô tả
- Phương pháp thống kê xử lý số liệu
- Phương pháp trao đổi ý kiến chuyên gia
1.5. Ý nghĩa của đề tài
Đồ án hoàn thành sẽ cung cấp đầy đủ một hệ thống cơ sở dữ liệu tin cậy về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và hiện trạng môi trường ngành chế biến thủy hải sản tỉnh Bến Tre. Đây là những thông tin quan trọng để các ngành kinh tế xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển của ngành mình đồng thời là tiêu chí quan trọng để quản lý và bảo vệ môi trường.
Tìm ra những hạn chế trong công tác quản lý môi trường, xử lý ô nhiễm của các nhà máy chế biến thủy hải sản trên địa bàn tỉnh Bến Tre để đề xuất các hướng giải pháp khắc phục kịp thời. Giúp các nhà quản lý làm việc hiệu quả, dễ dàng hơn.
1.6. Cấu trúc của đề tài
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Tổng quan về tỉnh Bến Tre
Chương 3: Tổng quan về ngành chế biến thủy hải sản và các vấn đề môi trường đi kèm
Chương 4: Hiện trạng môi trường ngành chế biến thủy hải sản Tỉnh Bến Tre
Chương 5: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường cho ngành chế biến thủy hải sản tại Bến Tre
Chương 6: Kết luận và kiến nghị
CHƯƠNG II
TỐNG QUAN VỀ TỈNH BẾN TRE
2.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Bến Tre
2.1.1. Vị trí địa lý
Bến Tre nằm ở phía đông vùng đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 cù lao lớn là An Hóa, Bảo và Minh. Diện tích tự nhiên là 2.356,85 km²; chiếm 5,84% diện tích vùng ĐBSCL. Về tọa độ địa lý, tỉnh Bến Tre nằm trong giới hạn từ 9o48' đến 10o20' vĩ độ Bắc và từ 106o48' đến 105o57' kinh độ Đông.
Bến Tre có ranh giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang.
- Phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh.
- Phía Đông giáp biển Đông với đường bờ biển dài trên 65 km.
Toàn tỉnh được chia thành 8 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thị xã Bến Tre, cách thành phố Hồ Chí Minh 85 km về phía Tây Bắc, là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh và 7 huyện: Bình Đại, Ba Tri, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Thạnh Phú, 07 thị trấn; 09 phường và 144 xã.
Hình 2.1: Vị trí địa lý tỉnh Bến Tre
2.1.2. Đặc điểm địa hình, địa mạo tỉnh Bến Tre
Nhìn chung, địa hình tỉnh Bến Tre tương đối bằng phẳng, cao độ bình quân 1 – 2 m, có khuynh hướng thấp dần theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và nghiêng ra phía biển Đông. Bốn bề tỉnh Bến Tre là sông nước bao bọc, bên trong có hệ thống sông rạch chằng chịt làm cho địa hình bị chia cắt mạnh. Về cơ bản có thể chia địa hình tỉnh Bến Tre ra làm 3 dạng địa hình:
- Vùng có địa hình thấp: có độ cao dưới 1m, bị ngập khi triều lên cao.
- Vùng có địa hình trung bình: 1 – 2m, chỉ ngập khi triều cường vào các tháng 9 – 12 có diện tích 165 ha.
- Vùng có địa hình cao: 2 – 5m, chiếm khoảng 7% tổng diện tích.
Đường bờ biển có khuynh hướng bồi thêm theo hướng Đông – Đông Nam tại các cửa sông Ba Lai và Cổ Chiên do tác động tổng hợp giữa các dòng hải lưu ven bờ và phù sa sông đổ ra biển. Chính vì những điều kiện địa hình và hệ thống sông rạch như trên đã tạo cho Bến Tre một chế độ thời tiết khí hậu và thủy hải văn có nét hơi khác biệt so với các tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long
2.1.3. Đặc điểm khí hậu, thủy hải văn tỉnh Bến Tre
2.1.3.1. Đặc điểm khí hậu
Tỉnh Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, hằng năm có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11) với gió mùa Tây Nam và mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau) với hoàn lưu gió Đông khống chế. Do nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa kết hợp với điều kiện địa hình và mặt đệm là những vườn dừa, vườn cây rộng lớn và những cánh đồng đan xen tạo cho Bến Tre có sự tương đối đồng nhất về khí hậu, không có sự phân hoá mạnh mẽ theo không gian giữa các huyện, giữa các vùng ven biển và các huyện xa biển.
a. Mưa
Mùa mưa chịu sự chi phối chung của hoàn lưu gió mùa ở khu vực gió mùa Châu Á. Mùa mưa hình thức bắt đầu vào trung tuần tháng 5 và chấm dứt vào tháng 11. Giai đoạn có mưa chuyển mùa thường từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 5, đôi khi giai đoạn này không rõ rệt mà chỉ có vài trận mưa rào báo hiệu chính thức bước vào mùa mưa.
b. Gió
Tương ứng với hai mùa trong năm thì cũng có hai mùa gió:
Gió Đông và Đông Nam chủ đạo trong mùa khô.
Gió Tây và Tây Nam là hướng gió trong mùa mưa.
Ngoài hai hướng gió chính, còn xuất hiện gió chướng, thổi theo hướng Đông – Đông Bắc thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Chúng là nguyên nhân gây ra tác hại: làm dâng mực nước biển, mặn xâp nhập sâu hơn vào nội địa.
c. Nắng
Tổng số giờ nắng trong năm là 2.046 giờ. Trong mùa khô, nắng trung bình khoảng 8 – 9 giờ/ngày với tổng số giờ nắng bình quân 240 – 260 giờ/tháng. Mùa mưa nắng ít hơn, bình quân 5,5 – 6,5 giờ/ngày tương đương với 170 – 190 giờ/tháng.
d. Nhiệt độ
Nền nhiệt độ bình quân trong năm không có sự biến động cao, nhiệt độ bình quân giữa tháng nóng nhất và tháng ít nóng nhất chênh nhau khoảng 3 – 4 0C. Nhiệt độ trung bình cả năm là 27,02 0C
e. Độ ẩm không khí
Độ ẩm tương đối của không khí có liên quan đến nhiệt độ không khí và lượng mưa. Do ở gần cửa biển, Bến Tre có độ ẩm khá cao. Tháng có độ ẩm cao nhất từ 87 – 88% vào mùa mưa tháng 8, 9, 10. Tháng có độ ẩm thấp nhất là vào mùa khô vào các tháng 3, 4 , độ ẩm từ 78 – 79%.
f. Độ bốc hơi
Mùa khô nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp nên lượng bốc hơi cao 3,6 – 5,5 mm/ngày. Trong đó tháng bốc hơi mạnh nhất là tháng 2 khoảng 5,5 mm/ngày. Sang mùa mưa, độ bốc hơi giảm đi rõ rệt, còn 2,2 – 3,2 mm.ngày. Trong đó, tháng 9 có độ bốc hơi nhỏ nhất 2,2 mm/ngày.
2.1.3.2. Chế độ thủy văn
a. Chế độ triều
Thủy triều biển Bến Tre tương đối lớn, xấp xỉ với thủy triều vịnh Bắc bộ và lớn hơn thủy triều ở bán đảo Cà Mau khoảng 2 lần. Biên độ triều ngoài biển có thể lên trên 4 m, khi truyền vào trong sông biên độ triều giảm dần, đến vùng thượng lưu tỉnh tại Chợ Lách biên độ triều lớn nhất trong năm giảm chỉ còn ở mức trung bình khoảng 2,60 m.
b. Xâm nhập mặn
Do Bến Tre nằm ở vùng cửa sông ven biển chịu ảnh hưởng của triều, gió chướng, sóng... nên bị mặn xâm nhập nghiêm trọng, nhất là trong mùa khô. Độ mặn của nước biến thiên theo từng tháng do ảnh hưởng phối hợp của thuỷ triều và lưu lượng nước thuỷ triều đổ về.
Hàng năm vào mùa khô, mặn theo dòng triều xâm nhập sâu vào các sông chính trong tỉnh, gây thiệt hại ít nhiều đến sản xuất và đời sống. Triều biển Đông đẩy mạnh vào sâu trên các sông, mặn theo triều nên một ngày cũng thường xuất hiện 2 đỉnh mặn và 2 chân mặn. Trị số đỉnh mặn và chân mặn thường xuất hiện sau đỉnh triều và chân triều từ 1 – 3 giờ. Độ mặn xâm nhập trong sông càng về thượng lưu càng giảm.
c. Tình hình nước dâng
Vào mùa mưa bão hàng năm, hiện tượng nước dâng trên các triều sông và kênh rạch trong tỉnh gây khó khăn, thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất, cơ sở vật chất, đời sống nhân dân và phát triển kinh tế ở tỉnh. Nước dâng là những ngày triều cường, mực nước đỉnh triều cao nhất hàng ngày trên các sông rạch lên cao, kết hợp với nước lũ thượng nguồn đổ về, hoặc kết hợp với bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) xuất hiện ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh nhà gây mưa lớn kéo dài, gió mạnh. Vì vậy, mực nước đỉnh triều cao nhất hàng ngày trên các sông rạch trong tỉnh sẽ dâng từ mức cao đến rất cao. Hiện tượng nước dâng thường xuất hiện từ giữa khoảng mùa mưa đến cuối năm, vào các tháng 8, 9, 10, 11... (tính theo âm lịch) vào giai đoạn các ngày đầu tháng và giữa tháng (mùng 1 và 15): mỗi tháng xuất hiện hai đợt nước dâng, mỗi đợt kéo dài từ 4 đến 7 ngày, ngày 2 lần, mỗi lần kéo dài khoảng 3 giờ. Hiện tượng nước dâng xuất hiện do tổ hợp xuất hiện cùng lúc 3 yếu tố: triều cường, lũ thượng nguồn lớn, bão hoặc ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh nhà.
2.1.4. Tài nguyên thiên nhiên tỉnh Bến Tre
2.1.4.1. Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn tỉnh Bến Tre hầu như không có các loại khoáng sản có giá trị cao và có trữ lượng công nghiệp. Các loại khoáng sản chủ yếu là:
- Mỏ hàu nhỏ ở Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú với chất lượng khá nhưng trữ lượng không đáng kể.
- Cát giồng ở Bến Tre ( khoảng 12.000 ha )
- Cát lòng sông: tập trung chủ yếu ở phía thượng lưu 4 sông lớn, tổng trữ lượng khoảng 316.733.000 m3.
- Sét gạch ngói: trữ lượng khoảng 9 triệu m3
2.1.4.2. Tài nguyên đất và tình hình sử dụng
Tài nguyên đất: Trên địa bàn tỉnh Bến Tre có 4 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn, nhóm đất mặn và nhóm đất cát.
- Nhóm đất cát: Diện tích khoảng 14.826 ha, chiếm tỷ lệ 6% diện tích tự nhiên
- Nhóm đất mặn: Diện tích khoảng 59.497 ha, chiếm tỷ lệ 25% diện tích tự nhiên
- Nhóm đất phèn: Diện tích 40.110 ha, chiếm 17% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
- Nhóm đất phù sa: Diện tích 84.171 ha chiếm 36% diện tích toàn tỉnh,
Tình hình sử dụng đất: Theo số liệu kiểm kê đất năm 2007, tổng diện tích tự nhiên tỉnh Bến Tre là 236.020 ha, trong đó có 181.551 ha đất nông nghiệp (chiếm 76,92% diện tích tự nhiên), 54.398 ha đất phi nông nghiệp (chiếm 23,05% diện tích tự nhiên) và có 71 ha đất chưa sử dụng (chiếm 0,03% diện tích tự nhiên). Cơ cấu sử dụng đất được trình bày ở bảng sau:
Bảng 2.1: Tình hình sử dụng đất tỉnh Bến Tre năm 2007
Đơn vị tính: ha
Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên
236.020
I. Đất nông nghiệp
181.551
1. Đất sản xuất nông nghiệp
136.196
1.1. Đất trồng cây hàng năm
50.379
1.2. Đất trồng cây lâu năm
85.817
2. Đất lâm nghiệp có rừng
6.431
3. Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản
37.265
4. Đất làm muối
1.314
5. Đất nông nghiệp khác
345
II. Đất phi nông nghiệp
54.398
1. Đất ở
7.489
2. Đất chuyên dùng
8.633
3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng
203
4. Đất nghĩa trang, nghĩa địa
804
5. Đất sông, suối và mặt nước chuyên dùng
37.267
6. Đất phi nông nghiệp khác
2
III. Đất chưa sử dụng
71
1. Đất bằng chưa sử dụng
71
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bến Tre, 2007)
Nhóm đất nông nghiệp còn khá lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên (76,92%). Tuy nhiên, do mật độ dân số nông thôn cao nên các chỉ số đất nông nghiệp trên đầu người chỉ vào mức độ thấp. Trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp, cây lâu năm chiếm ưu thế (47,27% đất nông nghiệp) với đặc trưng kinh tế vườn (trái cây và dừa); cây hàng năm chiếm tỷ trọng thấp (27,75% đất nông nghiệp) với cây trồng chính là lúa và mía; đất nuôi trồng thủy sản vùng mặn lợ chiếm vị trí quan trọng (20,53% đất nông nghiệp).
2.1.4.3. Tài nguyên nước
a. Tài nguyên nước mặt
Tỉnh Bến Tre là tỉnh thuộc vùng sông nước, bên trong có hệ thống sông rạch chằng chịt làm cho địa hình bị chia cắt mạnh. Tỉnh Bến Tre có hình dáng như tam giác cân, có đỉnh nằm ở phía thượng nguồn các con sông, cạnh đáy tiếp giáp với biển Đông. Các con sông lớn: sông Mỹ Tho (sông Tiền Giang), sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên như các nan quạt xòe rộng ra biển Đông.
Tổng lưu lượng nước mặt trung bình là 7.512,3 m3/s, phân bố trên 4 nhánh sông chính: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Ngoài ra, còn có trên 103 sông, kênh, rạch nhỏ phân bố khắp trên địa bàn với tổng chiều dài là 741 km và chiều rộng là 3,6 km.
b. Tài nguyên nước ngầm
Nước ngầm ở tỉnh Bến Tre tồn tại ở 3 dạng chủ yếu sau với tổng trữ lượng nước ngầm là 32.640 m3/ngày.
- Nước ngầm giồng cát: có diện tích 12.179 ha đất giồng cát, ước tính trữ lượng khoảng 12 triệu m3 nước, khả năng khai thác khoảng 844 m3/ngày.km2.
- Nước ngầm tầng nông: có độ sâu nhỏ hơn 100 m.
- Nước ngầm tầng sâu: sâu hơn 100 m.
2.1.4.4. Tài nguyên sinh vật và sinh thái
Qua điều tra, trên toàn diện tích rừng tỉnh Bến Tre đã phát hiện được 25 loài thực vật tự nhiên thuộc 19 họ chủ yếu là các loài Mắm trắng, Bần đắng, Đước, Đưng, Dừa nước … Có 11 loài lưỡng thê (4 họ, 1 bộ), 32 loài bò sát (22 họ, 3 bộ), tiêu biểu nhất là các loài rắn trong họ rắn nước; 19 loài thú (10 họ, 7 bộ), phổ biến hơn cả là các loài gặm nhấm trong họ chuột và họ dơi; có 84 loài chim (ở vùng lục địa) thuộc 35 họ với số lượng lên đến hàng ngàn cá thể, nhiều nhất là các loài cò Ngàng nhỏ, cò Trắng, cò Ruồi, Vạc, Quắm trắng, Diệt xám và 31 loài chim biển. Đây là nơi có mật độ chim biển cao nhất ở ĐBSCL. Kết quả điều tra rừng ngập mặn ở Bến Tre cho thấy, hiện có 286 loài động thực vật nổi, 113 loài động vật đáy, 96 loài cá, 20 loài tôm (trong đó có 12 loài tôm biển và 8 loài tôm nước ngọt).
2.1.4.5. Tài nguyên biển ven bờ
Sinh vật phù du
- Thực vật nổi: Kết quả khảo sát trong năm 2008 đã thu được tổng số 109 loài, 15 bộ, 30 họ thuộc 6 ngành tảo.
- Động vật nổi: Ghi nhận được 21 loài, thuộc 7 nhóm. Trứng cá – cá bột: Có 16 nhóm loài thuộc 12 họ.
- Động vật đáy: Có 60 loài, 42 họ, 7 lớp và 4 ngành. Ngành thân mềm (Mollusca) có thành phần loài đa dạng nhất, đã ghi nhận được 42 loài thuộc các lớp
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre
2.2.1. Điều kiện kinh tế
2.2.1.1 Cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Những năm qua, nền kinh tế của tỉnh phát triển khá, tổng giá trị sản xuất của tỉnh tăng từ 9.273,6 tỷ đồng năm 2000 lên 23.527,6 tỷ đồng năm 2007 (theo giá thực tế), nhịp độ tăng bình quân đạt 14,22%/năm. Cụ thể khu vực kinh tế nông nghiệp tăng 10,1%/năm; khu vực kinh tế công nghiệp tăng 19,09%/năm và khu vực kinh tế dịch vụ tăng 18,52%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực kinh tế nông nghiệp giảm từ 58,5% vào năm 2000 xuống còn 45,25% năm 2007; cơ cấu kinh tế khu vực công nghiệp tăng từ 22,55% năm 2000 lên 30,21% năm 2007 và khu vực kinh tế dịch vụ tăng từ 18,95% năm 2000 lên 24,55% năm 2007.
2.2.1.2. Ngành nông lâm ngư nghiệp
a. Khu vực kinh tế nông nghiệp
Năm 2007, giá trị sản xuất khu vực kinh tế nông nghiệp đạt 10.645,2 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm 45,24% tổng giá trị sản xuất của tỉnh, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2000 – 2007 đạt 10,1%/năm. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi và thủy sản
Mặc dù diện tích sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm trong giai đoạn 2000 – 2007 nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 3.739.600 tỷ đồng lên 6.360.217 tỷ đồng vào năm 2007. Cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp dần chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ.
b. Ngành lâm nghiệp
Năm 2007, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp là 60.135 triệu đồng (theo giá thực tế). Trong đó: từ trồng rừng và nuôi rừng đạt 5.279 triệu đồng; từ khai thác lâm sản đạt 53.274 triệu đồng, từ các hoạt động dịch vụ lâm nghiệp là 1.582 triệu đồng.
c. Ngành thủy sản
Năm 2007 toàn tỉnh có 41.864 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, trong đó diện tích nước mặn, lợ là 36.154 ha và diện tích nước ngọt là 5.710 ha. Giá trị sản xuất ngành thủy sản theo giá thực tế đạt 4.224.939 triệu đồng, trong đó: khai thác đạt 1.137.686 triệu đồng; nuôi trồng đạt 3.048.159 triệu đồng và dịch vụ đạt 39.094 triệu đồng.
2.2.1.3. Ngành công nghiệp
Khu vực kinh tế công nghiệp của tỉnh trong giai đoạn 2000 – 2007 tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất tăng nhanh từ 2.091 tỷ đồng năm 2000 lên 7.106,8 tỷ đồng vào năm 2007. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn này là 19,09%/năm.
Nền công nghiệp tỉnh phát triển mạnh về các ngành chế biến từ nguyên liệu có nguồn gốc tại chỗ hoặc một ít từ các tỉnh lân cận, chiếm đến 89,8% tổng giá trị sản xuất, trong khi các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước phát triển yếu. Tính đến cuối năm 2010 công suất chế biến thủy sản đạt 53.000 tấn/năm, sản lượng thành phẩm chế biến đạt 45.000 tấn, trong đó có từ 20.000 đến 25.000 tấn tôm, gần ½ sản lượng tôm của tỉnh. Qua đó, kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản liên tục được tăng lên, đến năm 2010 phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 180 triệu USD/năm.
Mục tiêu phấn đấu của Bến Tre là đến năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so s