Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng, nằm trên bán đảo Đông Dương có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời. Trên tinh thần “quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện, quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác, bền vững lâu dài", trong nhiều năm qua, mặc dù kinh tế Việt Nam còn hạn chế nhưng luôn dành cho Lào một nguồn lực vật chất dưới hình thức viện trợ không hoàn lại để thực hiện những nhiệm vụ hợp tác đã thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Lào vì sự nghiệp ổn định và phát triển của hai nư¬ớc.
Cùng với sự phát triển của Việt Nam, viện trợ không hoàn lại dành cho Lào ngày càng được tăng lên qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, việc nâng cao, phân tích một cách khoa học và hệ thống để rút ra những bài học kinh nghiệm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Vấn đề này luôn được sự quan tâm của Chính phủ cũng như Nhân dân củaViệt Nam và Lào.
Nhằm sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho CHDCND Lào trong những năm tới (2010 - 2020) một cách hiệu quả, đúng mục tiêu, em đã quyết định chọn đề tài “NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO”.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn trong quá trình hợp tác và các văn bản cam kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Lào; các Nghị định, Hiệp định, Biên bản, Quy chế và các Thông tư có liên quan về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với Lào; Những số liệu, số liệu thống kê và các số liệu công bố của các bộ, ngành liên quan của hai nước.
Với quan điểm gắn thực tế với lý luận về quan hệ đặc biệt và hợp tác láng giÒng, kết hợp giữa phương pháp phân tích và tư duy, Đề tài nhằm đưa ra những đánh giá và việc cung cấp và thực hiện vốn viện trợ không hoàn lại dành cho Lào trong thời gian qua (2006-2009), đồng thời rút ra những ưu điểm và tồn tại để từ đó đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng cho giai đoạn 2010-2020.
Nội dung nghiên cứu gồm ba phần chính
CHƯƠNG 1: Tổng quan về viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào
CHƯƠNG 2: Thực trạng sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào trong giai đoạn năm 2006 – 2009
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào trong giai đoạn năm 2010-2020
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ không hoàn lại của việt nam dành cho cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng, nằm trên bán đảo Đông Dương có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời. Trên tinh thần “quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện, quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác, bền vững lâu dài", trong nhiều năm qua, mặc dù kinh tế Việt Nam còn hạn chế nhưng luôn dành cho Lào một nguồn lực vật chất dưới hình thức viện trợ không hoàn lại để thực hiện những nhiệm vụ hợp tác đã thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Lào vì sự nghiệp ổn định và phát triển của hai nước.
Cùng với sự phát triển của Việt Nam, viện trợ không hoàn lại dành cho Lào ngày càng được tăng lên qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, việc nâng cao, phân tích một cách khoa học và hệ thống để rút ra những bài học kinh nghiệm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Vấn đề này luôn được sự quan tâm của Chính phủ cũng như Nhân dân củaViệt Nam và Lào.
Nhằm sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho CHDCND Lào trong những năm tới (2010 - 2020) một cách hiệu quả, đúng mục tiêu, em đã quyết định chọn đề tài “NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO”.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn trong quá trình hợp tác và các văn bản cam kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Lào; các Nghị định, Hiệp định, Biên bản, Quy chế và các Thông tư có liên quan về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với Lào; Những số liệu, số liệu thống kê và các số liệu công bố của các bộ, ngành liên quan của hai nước.
Với quan điểm gắn thực tế với lý luận về quan hệ đặc biệt và hợp tác láng giÒng, kết hợp giữa phương pháp phân tích và tư duy, Đề tài nhằm đưa ra những đánh giá và việc cung cấp và thực hiện vốn viện trợ không hoàn lại dành cho Lào trong thời gian qua (2006-2009), đồng thời rút ra những ưu điểm và tồn tại để từ đó đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng cho giai đoạn 2010-2020.
Nội dung nghiên cứu gồm ba phần chính
CHƯƠNG 1: Tổng quan về viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào
CHƯƠNG 2: Thực trạng sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào trong giai đoạn năm 2006 – 2009
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho nước CHDCND Lào trong giai đoạn năm 2010-2020
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của viện trợ không hoàn lại
1.1.1.1. Khái niệm
Viện trợ không hoàn lại là một phần hình thức viện trợ ODA chiếm 25% trở lên, là nguồn vốn ưu đãi mà các quốc gia, tổ chức phi chính phủ, tập đoàn xuyên quốc gia,...dành cho các nước kém phát triển và các nước đang phát triển với mục đích hỗ trợ phát trển, nâng cao mức sống, xây dựng cơ sở hạ tầng,...nhưng bên nhận không phải trả lại. Viện trợ không hoàn lại thường đi kềm những ràng buộc về kinh tế, chính trị đối với nước tiếp nhận. Các nước dùng viện trợ không hoàn lại chính trị để nhằm khẳng định vai trò của mình ở nước và khu vực tiếp nhận vốn.
Các hình thức viện trợ không hoàn lại gồm: Viện trợ bằng hiện vật, viện trợ bằng tiền, viện trợ phi vật chất (các tài sản thuộc sở hữu trí tuệ, các chi phí đào tạo, tham quan, khảo sát, hội thảo, chuyên gia... do phía nước ngoài trực tiếp quản lý và chi tiêu.
Đặc điểm khác biệt quan trọng nhất với nguồn viện trợ ODA thường là các khoản vay không có lãi suất hoặc lãi suất thấp trong dài hạn ( thường là trên 30 năm). Có nhiều cách phân loại ODA ( mục đích, giá trị,…), xét theo hình thức, thời gian hoàn trả thì ODA chia thành 2 loại: Viện trợ không hoàn lại và Cho vay với lãi suất thấp, thời gian hoàn trả dài. Trong đó các quốc gia sẽ không phải trả lãi cũng như gốc của khoản viện trợ không hoàn lại. Đây là một đặc ân đối với các quốc gia tiếp nhận, có thể sử dụng nguồn vốn vào các mục đích phát triển mà không phải lo tới gánh nặng nợ nần – một thực trạng đang xảy ra với rất nhiều quốc gia nghèo trên thế giới. Tuy nhiên nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định.
1.1.1.2. Đặc điểm viện trợ không hoàn lại
Yếu tố chính trị
Viện trợ không hoàn lại phụ thuộc lớn vào quan hệ chính trị các quốc gia như quốc gia tiếp nhận và các tổ chức….Thường là quốc gia có mối quan hệ chính trị thân thiết, cùng thể chế chính trị, đặc điểm chung…sẽ có nhiều nguồn viện trợ này. Thông qua các mối quan hệ, quốc gia, tổ chức cung cấp các khoản viện trợ không hoàn lại trong những điều kiện nhất định. Quy mô, tính chất các khoản ODA phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa các bên.
Theo đó quốc gia tiếp nhận chịu những ràng buộc chính trị với bên viện trợ, các quốc gia, tổ chức có thể nâng cao vị thế, tầm ảnh hưởng của mình của mình. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ.
Không ổn định, kém hiệu quả
Các khoản viện trợ không hoàn lại có thể được thực hiện theo các chương trình kế hoạch theo các giai đoạn nhất định. Thường là khoản này không cố định mà có sự biến động tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Nguồn viện trợ không hoàn lại thường khá nhỏ so với vốn ODA. Nguồn vốn này chủ yếu được sử dụng vào các mục đích xã hội thiết yếu : trường học, thông tin, giao thông nông thôn….Mục đích là nâng cao đời sống người nghèo, tạo điều kiện phát triển những cơ sở hạ tầng thiết yếu. Quy mô khoản viện trở này thường khá nhỏ bé và không thường xuyên, có thể kéo dài một hoặc nhiều năm.
Viện trợ có thể được thực hiện trong những điều kiện đặc biệt. Ví dụ khắc phục những hậu quả của mưa bão, dịch bệnh…Nguồn vốn này thường duy trì trong thời gian ngắn và giá trị không lớn
Với những đặc điểm trên thì viện trợ không hoàn lại không thể là nguồn vốn có thể sử dụng trong dài hạn. Điều đó cho thấy các quốc gia chỉ nên coi đó là một trong những khoản bổ sung phát triển trong thời gian ngắn, ở điều kiện nhất định. Ngoài ra cũng đòi hỏi phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn này. Tuy nhiên đây là một thách thức rất lớn đối với các quốc gia tiếp nhận. Các nước này phát triển ở trình độ thấp, năng lực quản lý yếu kém, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực kém …là những nhân tố cản trở việc sử dụng tốt nguồn vốn. Thực tế cho thấy tính phi hiệu quả trong sử dụng vốn viện trợ ở các quốc gia nghèo.
Sự phụ thuộc lớn
Nước tiếp nhận viện trợ tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Một số quốc gia khi viện trợ yêu cầu các điều khoản bắt buộc có lợi cho họ như: phần trăm sản phẩm của quốc gia đó trong dự án, công nghệ dự án, …
Quốc gia tiếp nhận phải chấp nhận những điều khoản có lợi cho nước viện trợ. Đó là những điều kiện về mở rộng hàng rào thuế quan, sự phụ thuộc về thương mại quốc tế. Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ, chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Như vậy, tuy nhận được những khoản viện trợ không hoàn lại nhưng quốc gia tiếp nhận phải chịu những ràng buộc có thể bất lợi. vì vậy trong quá trình hợp tác, quan hệ đối ngoại đòi hỏi các quốc gia phải có những nguyên tắc đảm bảo những lợi ích cho tất cả các bên trên cơ sở độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, quyền tự quyết … Các quốc gia tiếp nhận không nên chấp nhận những điều khoản quá bất lợi về phía mình mà cân nhắc tránh những ảnh hưởng quá tiêu cực cho nền kinh tế, sự phụ thuộc về chính trị.
1.1.2. Vai trò của Viện trợ không hoàn lại
Viện trợ không hoàn lại thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp nhận. Tuy vậy, đối với mỗi bên nó sẽ mang một vai trò khác nhau.
1.1.2.1. Vai trò đối với các nước xuất khẩu viện trợ
Viện trợ không hoàn lại tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng của vốn viện trợ không hoàn lại, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về buôn bán giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên.
Nguồn viện trợ không hoàn lại đa phương mặc dù cũng có uư điểm giúp các nước tiếp nhận khôi phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu nghèo trong các tầng lớp dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn này trong nước.
Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ không hoàn lại là các nước cung cấp không nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các mục đích quân sự.
1.1.2.2. Vai trò đối với các nước tiếp nhận
Tầm quan trọng của viện trợ không hoàn lại đối với các nước đang và kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận viện trợ không hoàn lại đã đạt được.
Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng nên thông qua viện trợ không hoàn lại song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. viện trợ không hoàn lại mang lại nguồn lực cho đất nước.
Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển.
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của viện trợ không hoàn lại.
Viện trợ không hoàn lại còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ chức tài chính quốc tế mang lại.
Viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế.
Viện trơ không hoàn lại tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn viện trợ này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn viện trơ không hoàn lại cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo...
Viện trợ không hoàn lại giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh nghiệp.
Ngoài ra viện trợ không hoàn lại còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp viện trợ nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
Bên cạnh những mặt tích cực, viện trợ không hoàn lại cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn chế rõ nhất của viện trợ không hoàn lại là các nước nếu muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung viện trợ không hoàn lại vào các thành phố trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào...
1.2. VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ HỢP TÁC VỚI CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.2.1. Đặc điểm của viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng luôn dành cho nhau sự giúp đỡ chí tình và trở thành sức mạnh trong công cuộc đấu tranh dành độc lập và xây dựng của mỗi nước.
Như vậy, viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào có đặc điểm riêng so với nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức của những nước phát triển tài trợ cho Lào.
Trước hết, hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) của các nước phát triển khi tài trợ thường được gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị...có lợi cho nước tài trợ, từ đó có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực quan tâm hoặc có lợi thế.
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA thường phải dễ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước, chấp nhận bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ, từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ và yêu cầu ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước tài trợ vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là chưa cần thiết đối với các nước nhận tài trợ. Với các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm phần lớn trong dự án trước yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của nước tài trợ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới.
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch, đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của nước tài trợ, buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do nước cấp ODA sản xuất.
Thứ hai, viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào không phải là nguồn tài trợ từ nước phát triển dành cho nước đang phát triển. Nền kinh tế của Việt Nam, Lào đều có điểm xuất phát thấp so với các nước trong khu vực và nằm trong danh sách các nước nghèo của thế giới. Với đặc điểm về địa lý, kinh tế xã hội tương đồng giữa hai nước, nguồn viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào thể hiện sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau vì sự nghiệp ổn định và phát triển của mỗi nước.
Trong nhiều thập kỷ qua được sự quan tâm thường xuyên của Lãnh đạo cấp cao hai nước, hợp tác Việt Nam với Lào đã phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực, không ngừng mở rộng cả quy mô lẫn hình thức. Trong các lĩnh vực hợp tác luôn có sự phối hợp thường xuyên trên tinh thần tôn trọng vì lợi ích của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, điều chỉnh và tháo gỡ kịp thời những bất cập nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước một cách thiết thực, với ý nghĩa “không phải là giúp mà là làm một nhiệm vụ quốc tế”.
Thứ ba, Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi trọng, phát triển và củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện với Lào, coi đây là nhiệm vụ quốc tế có tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ cho lợi ích đảm bảo ổn định an ninh, chính trị và phát triển của mỗi nước. Việc thực hiện hợp tác giúp Lào không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế với mỗi nước, mà còn được xem xét dưới gốc độ hiệu quả và nghĩa vụ hợp tác quốc tế dưới tác động toàn diện cả về xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái có liên quan đến hai nước.
Đây chính là đặc điểm cơ bản có tác động trực tiếp tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào. Nó không những thể hiện sự giúp đỡ chí tình, vô tư vì sự nghiệp ổn định và phát triển của mỗi nước, mà còn là nghĩa vụ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với nước láng giềng Lào.
Viện trợ không hoàn lại của Việt Nam trong tổng thể ODA dành cho CHDCND Lào
1.2.2.1. Nguồn vốn tại trợ của nước ngoài
Trong những năm 1975-1990 Lào đã nhận được vốn viện trợ và vốn vay với lãi xuất thấp lên tới 2.347 triệu USD, trung bình 147 triệu USD/năm. Năm 1991-1996 Lào đã nhân được 1.340 triêu USD vốn viện trợ và vốn vay, trung bình 268 triệu USD/năm và trong những năm 1996-2006 Lào đã nhận được 3.243 triệu USD vốn viện trợ và vốn vay, trung bình 324 triệu USD/năm. Trong đó, vốn viện trợ và vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế chiếm 37% tổng số vốn viện trợ và vốn vay. Vốn vay chiếm trên 95% và vốn viện trợ khoảng 2,8%.
Nhật Bản, Đức, Thụy Điển và Trung Quốc là những nước viện trợ và cho vay chiếm 52% trong tổng số vốn viện trợ và vốn vay. Riêng Nhật Bản viện trợ không hoàn lại cho Lào trên 100 triệu USD/năm. Bước vào cuối những năm 2006-2009, do khó khăn của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, nguồn ODA của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, năm 2007, Chính phủ Lào đó nhận được nguồn ODA từ các nhà tài trợ cam kết dành cho Lào là 433 triệu USD, bằng 11% GDP của cả nước.
1.2.2.2. Viện trợ không hoàn lại của Việt Nam trong tổng thể ODA
Trong tổng thể chung, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số viện trợ không hoàn lại mà Lào nhận được từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Theo số liệu tổng hợp 1994-2009 viện trợ không hòan lại của Việt Nam chiếm khoảng 15,22% trong tổng số viện trợ không hoàn lại của các nước và các tổ chức quốc tế dành cho Lào giai đoạn 1996-2005, 6,66% trong năm tài chính 2007-2008 và 7,68% năm tài chính 2008-2009.
Nếu so sánh với viện trợ không hoàn lại trong hợp tác song phương với các nước dành cho Lào năm tài chính 2008-2009, Việt Nam hiện đứng thứ hai với 18,81 triệu USD chỉ sau Nhật Bản Là 59,98 triệu USD năm 2009. Tiếp đến Thụy Điển, Đức, Úc và Pháp và những nước viện trợ không hoàn lại và cho vay dưới 1 triệu USD/năm là Na Uy, Đam Mạch, Niu-Zi-lơn, Lúc-Xăm-Bua và Phần Lan.
Quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật được đánh dấu bằng những thỏa thuận giữa hai Chính phủ tại Kỳ họp Ủy ban Hỗn hợp lần thứ nhất (1996). Tính từ năm 1996 đến nay nguồn viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào là 578,641 tỉ VNĐ, trong đó giai đoạn 2006-2010 là 424,641 tỉ VNĐ (tương đương với 25,74 triệu USD). Số viện trợ này được tăng lên qua từng giai đoạn, năm 1996-2000 là 34 tỷ VNĐ, 2001-2005 là 120 tỉ VNĐ, tăng 3,53 lần so với 1996-2000 và 2006-2009 là 434,641 tỷ VNĐ, tăng 3,62 lần so với 2001-2005.
Biểu số 1:
VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM TRONG TỔNG ODA HUY ĐỘNG CHUNG CỦA LÀO
Đơn vị: triệu USD
Giai đoạn
Tổng vốn viện trợ chung các nước và các tổng chức
Viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào
Vốn vay
Viện trợ KHL
Bình quân năm KHL
Viện trợ KHL
Bình quân năm KHL
%So với tổng KHL chung
1975-1990
2230
117
7.33
1991-1995
1273
67
13.4
1996-2000
1456
232
46.40
29.89
5.96
12.81
2001-2005
1301
254
50.8
44.16
8.83
17.38
2006-2009
244.50
529.12
105.824
50.60
10.12
14.34
Nguồn: - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế Bắc Lào 2008-2020
- Kế hoạch hợp tác với Lào hàng năm - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Cục Hợp tác quốc tế – phòng hợp tác ODA – Bộ kế hoạch v