Đồ án Nghiên cứu mạng NGN và các dịch vụ trên NGN của VNPT

Ngày nay thông tin đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con người .Thông tin con có ý nghĩa quyết định thành công của một doanh nghiệp.Chính vì vậy lượng thông tin ngày càng lớn và đòi hỏi các phương thức truyền tin đa dạng và phong phú hơn. Để đáp ứng được điều đó, các hệ thống truyền thông số ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin. Sự phát triển của mạng thế hệ mới NGN (Next Generation Network) là một bước đột phá của mạng viễn thông thế giới, nó làm thay đổi hẳn về kiến trúc mạng cũng như dịch vụ của mạng viễn thông hiện nay. Vì những lý do đó em xin được trình bày đồ án”nghiên cứu mạng NGN và các dịch vụ trên NGN của VNPT”.Đồ án bao gồm 5 chương: * Chương I : Tổng quan về mạng thế hệ mới NGN * Chương II :Cấu trúc mạng NGN * Chương III: Công nghệ chuyển mạch mềm trong mạng NGN * Chương IV:Dịch vụ và các vấn đề liên quan đến dich vụ trong NGN * chương V:Triển khai mạng NGN vào mạng viễn thông VIỆT NAM. Do nội dung kiến thức đề tài rộng lớn ,khả năng còn hạn chế nên bản đồ án này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý của thầy cô giáo và bạn bè để đồ án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô Lê Thị Cẩm Hà cùng các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và làm đồ án tốt nghiệp tại trường .Em xin chân thành cảm ơn.

doc92 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu mạng NGN và các dịch vụ trên NGN của VNPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ MẠNG THẾ HỆ MỚI NGN (NEXT GENERATION NETWORK) 1.1. Giới thiệu chương Kỷ nguyên công nghệ thông tin, cùng với việc ứng dụng công nghệ truyền thông đa phương tiện và xu hướng toàn cầu hoá trong kinh doanh, đã tạo ra sức ép cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường công nghệ truyền tin. Đặt ra yêu cầu lớn đối với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải liên tục cải tiến hệ thống để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Công nghệ mạng hiện nay dựa trên công nghệ chuyển mạch kênh sử dụng dung lượng truyền dẫn có hiệu quả thấp. Do vậy với công nghệ hiện nay mạng viễn thông không thể đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh trên. Chương này sẽ sơ lược về mạng viễn thông cũng như đặc điểm, những hạn chế của mạng viễn thông hiện tại, từ đó đưa ra xu hướng phát triển của mạng viễn thông và dịch vụ. Trong xu hướng phát triển mạng tất cả con đường gần như hội tụ về một mạng gọi là mạng thế hệ mới NGN. Xu hướng phát triển mạng viễn thông theo cấu trúc mạng thế hệ mới là xu hướng chung trên thế giới. Mỗi quốc gia, mỗi nhà khai thác phải chọn một cách đi, một lộ trình phù hợp với tình hình thực tế mạng của mình. 1.2. Khái quát chung về mạng viễn thông hiện tại 1.2.1. Khái niệm về mạng viễn thông Mạng viễn thông là phương tiện truyền đưa thông tin từ đầu phát tới đầu thu. Mạng có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Mạng viễn thông bao gồm các thành phần chính: thiết bị chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn, môi trường truyền dẫn và thiết bị đầu cuối. Hình 1.1 mô tả các thành phần chính của mạng viễn thông. + Thiết bị chuyển mạch gồm có tổng đài nội hạt và tổng đài quá giang. Các thuê bao được nối vào tổng đài nội hạt và tổng đài nội hạt được nối vào tổng đài quá giang. Nhờ các thiết bị chuyển mạch mà đường truyền dẫn được dùng chung và mạng có thể được sử dụng một cách kinh tế. Hình 1.1 : Các thành phần chính của mạng viễn thông + Thiết bị truyền dẫn dùng để nối thiết bị đầu cuối với tổng đài hay giữa các tổng đài để thực hiện việc truyền đưa tín hiệu thông tin. Thiết bị truyền dẫn chia làm hai loại: thiết bị truyền dẫn phía thuê bao và thiết bị truyền dẫn cáp quang. Thiết bị truyền dẫn thuê bao dùng môi trường truyền thường là cáp kim loại tuy nhiên trong một số trường hợp có thể là cáp quang hoặc vô tuyến. Thiết bị truyền dẫn giữa các tổng đài thường là cáp quang đôi khi dùng cáp đồng trục, cáp xoán đôi hay viba… + Môi trường truyền bao gồm truyền dẫn vô tuyến và truyền dẫn hữu tuyến. Truyền hữu tuyến bao gồm dùng các cáp kim loại, cáp quang. Truyền vô tuyến bao gồm viba và vệ tinh. + Thiết bị đầu cuối cho mạng truyền thông gồm máy điện thoại, máy Fax, máy tính, tổng đài PABX. Một cách khác có thể định nghĩa mạng viễn thông : Mạng viễn thông là một hệ thống gồm các nút chuyển mạch được nối với nhau bằng các đường truyền dẫn. Nút được phân thành nhiều cấp và kết hợp với các đường truyền dẫn tạo thành các cấp mạng khác nhau. Mạng viễn thông hiện nay có cấu trúc khác nhau như: mạng lưới, mạng sao, mạng tổng hợp, mạng vòng hay mạng thang. Các loại mạng này đều có nhược điểm và ưu điểm riêng phù hợp với từng vùng địa lý hay vùng lưu lượng. Về cơ bản mạng viễn thông được chia thành năm cấp nhưng trong từng trường hợp riêng có thể chỉ là bốn cấp, xu thế hiện nay cũng là giảm số cấp để quản lý thuận tiện và hiệu quả hơn. 1.2.2. Các đặc điểm của mạng viễn thông hiện nay Các mạng viễn thông hiện tại có đặc điểm chung là tồn tại một cách riêng lẻ, ứng với mỗi loại dịch vụ thông tin lại có ít nhất một loại mạng viễn thông riêng biệt để phục vụ dịch vụ đó. Hiện tại có một số mạng truyền thống đang được khai thác như: mạng Telex, mạng điện thoại công cộng hay còn gọi là mạng POTS , mạng truyền hình, mạng truyền số liệu, trong phạm vi cơ quan tổ chức hay văn phòng thì có mạng cục bộ LAN… Mỗi mạng được thiết kế cho các dịch vụ riêng biệt và không thể sử dụng cho các mục đích khác. Một số mạng điển hình đang khai thác : + PSTN (Publish Switching Telephone Network) là mạng chuyển mạch điện thoại công cộng hay nói cách khác là mạng kết nối tất cả các hệ thống tổng đài chuyển mạch. PSTN phục vụ thoại bao gồm 2 loại tổng đài : tổng đài nội hạt (cấp 5), và tổng đài tadem (tổng đài quá giang nội hạt, cấp 4). Tổng đài tadem được nối vào tổng đài Toll để giảm mức phân cấp. Mạng này đang được nâng cấp ở các tổng đài trung tâm cũng như phía đầu cuối khách hàng…để có thể khai thác thêm một số dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng này. Đây là một mạng rất phức tạp, rất cũ và rất rộng nhưng đóng vai trò rất lớn trong viễn thông. + ISDN (Intergrated Service Digital Network) là mạng số tích hợp dịch vụ. ISDN cung cấp nhiều loại ứng dụng thoại và phi thoại trong cùng một mạng và xây dựng giao tiếp người sử dụng - mạng đa dịch vụ bằng một số giới hạn các kết nối ISDN, cung cấp nhiều ứng dụng khác nhau bao gồm các kết nối chuyển mạch và không chuyển mạch. Sử dụng kiến trúc phân lớp ISDN là đặc trưng của truy xuất ISDN. Truy xuất của người sử dụng đến nguồn ISDN có thể khác nhau tùy thuộc vào dịch vụ yêu cầu và tình trạng ISDN của từng quốc gia. ISDN được sử dụng với nhiều cấu hình khác nhau tùy theo hiện trạng mạng viễn thông của từng quốc gia. + PSDN (Public switching Data Network) là mạng chuyển mạch số liệu công cộng. PSDN chủ yếu cung cấp các dịch vụ số liệu. Mạng PSDN bao gồm các PoP và các thiết bị truy nhập từ xa. Hiện nay PSDN đang phát triển rất nhanh do sự bùng nổ của Internet và các mạng riêng ảo VPN. + Mạng di động GSM (Global System for Mobile Telecom) là mạng cung cấp dịch vụ thoại tương tự như PSTN nhưng thông qua đường truy nhập vô tuyến. Mạng này chuyển mạch dựa trên công nghệ ghép kênh theo thời gian và công nghệ ghép kênh phân chia theo tần số. + Hệ thống thông tin vệ tinh: Số lượng các hệ thống thông tin vệ tinh đã tăng lên rất nhiều trong thời gian gần đây. Ngày nay, các hệ thống thông tin vệ tinh chuyển tiếp lưu lượng điện thoại xuyên đại dương lớn hơn rất nhiều lưu lượng điện thoại được gửi qua cáp ngầm. Hơn nữa, các hệ thống thông tin vệ tinh còn có thể chuyển tiếp các tín hiệu dữ liệu, thoại, hình ảnh đến bất kỳ người sử dụng nào trên trái đất. Hiện nay các nhà cung cấp dịch vụ thu được lợi nhuận phần lớn từ các dịch vụ như Leased Line, Frame relay, ATM và các dịch vụ kết nối cơ bản. Tuy nhiên trong tương lai sẽ khác, lợi nhuận từ các dịch vụ trên có xu hướng giảm và đòi hỏi các nhà cung cấp dịch vụ phải tìm ra các dịch vụ mới để khai thác và đảm bảo lợi nhuận. Trên con đường đó thì việc khai thác các dịch vụ dựa trên IP là một hướng đi đúng đắn và đã chứng tỏ rõ sự phù hợp qua một số dịch vụ mới được khai thác như dịch vụ mạng riêng ảo VPN… 1.2.3. Những hạn chế của mạng viễn thông hiện nay Hệ thống mạng viễn thông hiện tại có rất nhiều nhược điểm mà quan trọng nhất là: - Chỉ truyền được các dịch vụ độc lập tương ứng với từng mạng. - Thiếu mềm dẻo : Sự ra đời của các công nghệ mới ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ truyền tín hiệu. Ngoài ra, sẽ xuất hiện nhiều dịch vụ truyền thông trong tương lai mà hiện nay chưa dự đoán được, mỗi loại dịch vụ sẽ có tốc độ truyền khác nhau. Do đó mạng hiện tại rất khó thích nghi với những đòi hỏi này. - Kém hiệu quả trong việc bảo dưỡng, vận hành cũng như sử dụng tài nguyên. Tài nguyên sẵn có trong một mạng không thể chia sẻ cho các mạng khác cùng sử dụng. - Kiến trúc tổng đài độc quyền làm cho các nhà khai thác gần như phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp tổng đài. Điều này không những làm giảm sức cạnh tranh cho các nhà khai thác, đặc biệt là những nhà khai thác nhỏ, mà còn tốn nhiều thời gian và tiền bạc khi muốn nâng cấp và ứng dụng các phần mềm mới. - Các tổng đài chuyển mạch kênh đã khai thác hết năng lực và trở nên lạc hậu đối với nhu cầu của khách hàng. Nó còn làm hạn chế khả năng sáng tạo và triển khai các dịch vụ mới, từ đó dẫn đến việc làm giảm lợi nhuận của các nhà khai thác. - Sự bùng nổ lưu lượng thông tin đã khám phá sự kém hiệu quả của chuyển mạch kênh TDM. Chuyển mạch kênh truyền thống chỉ dùng để truyền các lưu lượng thoại có thể dự đoán trước, và nó không hỗ trợ lưu lượng dữ liệu tăng đột biến một cách hiệu quả. Khi dữ liệu tăng vượt lưu lượng thoại, đặc biệt đối với dịch vụ truy cập Internert quay số trực tiếp, thường xảy ra nghẽn mạch do nguồn tài nguyên hạn hẹp. Trong khi đó, chuyển mạch kênh làm lãng phí băng thông khi các mạch đều rỗi trong một khoảng thời gian mà không có tín hiệu nào được truyền đi. Trước tình hình phát triển của mạng viễn thông hiện nay, các nhà khai thác nhận thấy rằng “sự hội tụ giữa mạng PSTN và mạng PSDN” là chắc chắn xảy ra. Họ cần có một cơ sở hạ tầng duy nhất cung cấp cho mọi dịch vụ (tương tự - số, băng hẹp - băng rộng, cơ bản - đa phương tiện,…) để việc quản lý được tập trung, giảm chi phí bảo dưỡng và vận hành, đồng thời hỗ trợ các dịch vụ mạng hiện nay. 1.3. Xu hướng phát triển mạng viễn thông và dịch vụ * Sự hội tụ của mạng thoại và truyền số liệu Có thể coi từ những năm 2000 trở về trước dịch vụ thoại chiếm hầu hết thị trường cung cấp dịch vụ của mạng viễn thông. Nhưng cho tới những năm 2001 với sự phát triển đột biến của công nghệ dẫn tới sự hội tụ truyền thông .Những khách hàng ngày nay đòi hỏi nhiều loại hình dịch vụ (thoại, dữ liệu/internet, video, truy nhập vô tuyến) từ cùng một nhà cung cấp dịch vụ . Sự hội tụ truyền thông yêu cầu sự triển khai các công nghệ tiên tiến để triển khai các dịch vụ mới trên nền tảng cơ sở hạ tầng đã có. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về dịch vụ dữ liệu đang tăng nhanh trong những năm vừa qua. * Xu hướng phát triển mạng và dịch vụ - Xu hướng phát triển mạng và dịch vụ Hội nhập thoại, video và dữ liệu cùng với sự mở rộng thị trường và xu hướng toàn cầu hóa đã dẫn tới việc cạnh tranh ở mức độ không thể lường trước được trong thị trường truyền thông. Áp lực đang ngày càng tạo ra khi nhiều công ty đang sử dụng hiệu quả của các mạng đa dịch vụ chuyển mạch gói hay còn gọi là các mạng thế hệ sau (NGN). Trong xu hướng phát triển mạng tất cả con đường gần như hội tụ về một mạng gọi là mạng thế hệ mới (NGN), bởi lẽ mạng NGN đã cho thấy rất nhiều tính ưu việt của nó. Sự hợp nhất của các mạng là yêu cầu cần thiết, mang lại nhiều lợi ích cho nhà khai thác dịch vụ. Đối với định hướng NGN mang lại nhiều tính năng có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu của khách hàng nhất là các dịch vụ băng rộng như: + Tăng thêm tính mềm dẻo + Tập trung khả năng điều khiển cuộc gọi thông qua chuyển mạch mềm. + Có thể tiết kiệm băng thông + Thực sự cung cấp dịch vụ multi-media. - Xu hướng phát triển dịch vụ chăm sóc khách hàng Truy nhập thời gian thực đến các thông tin khách hàng: Khả năng truy nhập thời gian thực đến thông tin khách hàng (thực chất là cước phí). Dựa trên các thông tin này họ có thể chủ động điều chỉnh sử dụng dịch vụ cho phù hợp với khả năng tài chính của mình. Ngày nay hầu hết các mạng di động và rất nhiều nhà cung cấp nội dung trên các mạng IP và Internet đã có khả năng cho khách hàng truy cập đến các thông tin này. Xu hướng này sẽ dần thay thế phương pháp tính cước theo lô (hàng tháng, hàng quí,…) thường thì khách hàng có thể lấy thông tin đó qua Internet. Tuy nhiên các thông tin có tính tổng kết cũng có thể lấy qua dịch vụ hỏi-đáp thoại. Khách hàng có quyền tự thiết lập dịch vụ: Thể hiện sự quan tâm từ phía các khách hàng đối với khả năng tự thực hiện các chức năng quản lý và bảo trì các dịch vụ của NGN.Các tác vụ mà khách hàng thường được trao quyền thực hiện là quản lý các tài khoản thư điện tử, quản lý địa chỉ IP và tên miền đã được cấp và các tác vụ khác tương tự. Các Gateway đặc biệt cũng quyết định xem khách hàng được kết nối tới hệ thống quản lý ở mức nào, chỉ ở mức điều hành mạng hay các mức cao hơn (cấu hình mạng và điều hành dịch vụ). Thỏa thuận chất lượng dịch vụ: Khi nhận được yêu cầu dịch vụ, bộ phận dịch vụ khách hàng thường phải thỏa thuận với khách hàng về chất lượng dịch vụ, bao gồm các chi tiết như: thời gian đáp ứng dịch vụ, băng thông hoặc dung lượng tối thiểu và nhiều chi tiết khác nữa. Kết quả các thỏa thuận sẽ được coi như là một phần của hợp đồng dịch vụ, được lưu trữ lại để sử dụng cho các bước tiếp theo.Thỏa thuận chất lượng dịch vụ sẽ không thực hiện được nếu thiếu các phương tiện trợ giúp thông minh. Phần lớn các hệ thống quản lý mạng đều có chức năng này để đảm bảo các tài nguyên được cung cấp đầy đủ, thực hiện các thỏa thuận chất lượng dịch vụ. 1.4. Điều cần quan tâm khi phát triển NGN Trước hết các nhà khai thác dịch vụ viễn thông phải xem xét cơ sở TDM mà họ đã lắp đặt để quyết định xây dựng một NGN xếp chồng hay thậm chí thay thế các tổng đài truyền thống bằng những chuyển mạch công nghệ mới sau này. Các nhà khai thác cần tìm ra phương pháp cung cấp các dịch vụ mới cho khách hàng của họ trong thời kỳ quá độ trước khi các mạng của họ chuyển sang NGN một cách đầy đủ. Phải hỗ trợ dịch vụ thoại qua IP và hàng loạt các dịch vụ giá trị tăng khác trong khi cơ chế “best effort” phân phối các gói tin không còn đủ đáp ứng nữa. Mở rộng mạng IP theo nhiều hướng, nhiều khả năng cung cấp dịch vụ trong khi vẫn giữ được ưu thế của mạng IP. Và quy mô mạng phải đủ lớn để cung cấp cho khách hàng nhằm chống lại hiện tượng tắc nghẽn cổ chai trong lưu lượng của mạng lõi. Việc tăng số lượng các giao diện mở cũng làm tăng nguy cơ mất an ninh mạng. Do đó đảm bảo an toàn thông tin mạng chống lại sự xâm nhập trái phép từ bên ngoài trở thành vấn đề sống còn của các nhà khai thác mạng. Vấn đề cũng không kém phần quan trọng là các giải pháp quản lý thích hợp cho NGN trong môi trường đa nhà khai thác, đa dịch vụ. Mặc dù còn mất nhiều thời gian và công sức trước khi hệ thống quản lý mạng được triển khai nhưng mục tiêu này vẫn có giá trị và sẽ mang lại nhiều lợi ích như giảm chi phí khai thác, dịch vụ đa dạng. Một vấn đề quan trọng nữa khi triển khai NGN là các công nghệ áp dụng trên mạng lưới phải sẵn sàng : - Về công nghệ truyền dẫn: phải phát triển các cộng nghệ truyền dẫn quang SDH, WDM hay DWDM với khả năng hoạt động mềm dẻo linh hoạt, thuận tiện cho khai thác và điều hành quản lý. - Về công nghệ truy nhập: phải đa dạng hoá các dạng truy nhập cả vô tuyến và hữu tuyến. Tích cực phát triển và hoàn thiện để đem vào ứng dụng rộng rãi các công nghệ truy nhập tiên tiến như truy nhập quang, truy nhập WLAN, truy nhập băng rộng, đặc biệt là triển khai rộng truy nhập ADSL và hệ thống di động 3G. - Về công nghệ chuyển mạch: Mặc dù có nhiều tranh luận về việc lựa chọn công nghệ nào cho NGN trong các công nghệ IP, ATM, ATM/IP hay MPLS, song có thể nói chuyển mạch gói sẽ là sự lựa chọn trong NGN. Gần đây với sự hoàn thiện về nghiên cứu công nghệ MPLS sẽ hứa hẹn là công nghệ chuyển mạch chủ đạo trong NGN. Bên cạnh đó một công nghệ khác là chuyển mạch quang cũng đang được nghiên cứu, hy vọng sẽ sớm được ứng dụng trong thực tế. 1.5. Định nghĩa mạng NGN Trong nhiều năm gần đây, nền công nghiệp viễn thông vẫn đang trăn trở về vấn đề phát triển công nghệ căn bản nào và dùng mạng gì để hỗ trợ các nhà khai thác mạng trong bối cảnh luật viễn thông đang thay đổi nhanh chóng. Sự cạnh tranh ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Khái niệm mạng thế hệ mới (Hay còn gọi là mạng thế hệ kế tiếp - NGN) ra đời cùng với việc tái kiến trúc mạng, tận dụng các ưu thế về công nghệ tiên tiến nhằm đưa ra dịch vụ mới, mang lại nguồn thu mới, góp phần giảm chi phí khai thác và đầu tư ban đầu cho các nhà kinh doanh. Hình 1.2: Topo mạng thế hệ sau Mạng viễn thông thế hệ mới có nhiều tên gọi khác nhau, chẳng hạn mạng đa dịch vụ, mạng hội tụ, mạng phân phối, mạng nhiều lớp. Cho tới hiện nay, mặc dù các tổ chức viễn thông quốc tế và các nhà cung cấp thiết bị viễn thông trên thế giới đều rất quan tâm và nghiên cứu chiến lược phát triển NGN nhưng vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể và chính xác nào cho mạng NGN. Do đó, ta chỉ tạm định nghĩa mạng NGN như sau: “ NGN là mạng có hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói, triển khai các dịch vụ một cách đa dạng và nhanh chóng, là sự hội tụ giữa thoại và dữ liệu, giữa cố định và di động.” 1.6. Đặc điểm của mạng NGN Mạng NGN có 4 đặc điểm chính: - Nền tảng là hệ thốngmạng mở: Các khối chức năng của tổng đài truyền thống chia thành các phần tử mạng độc lập, các phần tử được phân theo chức năng tương ứng, và phát triển một cách độc lập. Giao diện và giao thức giữa các bộ phận phải dựa trên các tiêu chuẩn tương ứng. Việc phân tách làm cho mạng viễn thông vốn có dần đi theo hướng mới, nhà kinh doanh có thể căn cứ vào nhu cầu dịch vụ để tự tổ hợp các phần tử khi tổ chức mạng lưới. - Mạng NGN là do mạng dịch vụ thúc đẩy, nhưng dịch vụ phải thực hiện độc lập với mạng lưới: Với đặc điểm của chia tách dịch vụ với điều khiển cuộc gọi và chia tách cuộc gọi với truyền tải. Mục tiêu chính của chia tách là làm cho dịch vụ thực sự độc lập với mạng, thực hiện một cách linh hoạt và có hiệu quả việc cung cấp dịch vụ. - Mạng NGN là mạng chuyển mạch gói, dựa trên một giao thức thống nhất. Mạng thông tin hiện nay, dù là mạng viễn thông, mạng máy tính hay mạng truyền hình cáp đều không thể lấy một trong các mạng đó làm nền tảng để xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Nhưng mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ IP, người ta mới nhận thấy rằng là mạng viễn thông, mạng máy tính và mạng truyền hình cáp cuối cùng rồi cũng tích hợp trong một mạng IP thống nhất - Đó là xu thế lớn. Giao thức IP làm cho các dịch vụ lấy IP làm cơ sở đều có thể thực hiện nối thông các mạng khác nhau. Giao thức IP thực tế đã trở thành giao thức ứng dụng vạn năng và bắt đầu được sử dụng làm cơ sở cho các mạng đa dịch vụ, mặc dù hiện tại vẫn còn ở thế bất lợi so với các chuyển mạch kênh về mặt khả năng hỗ trợ lưu lượng thoại và cung cấp chất lượng dịch vụ đảm bảo cho số liệu. Với tốc độ đổi mới nhanh chóng trong thế giới Internet, mà nó được tạo điều kiện bởi sự phát triển của các tiêu chuẩn mở sẽ sớm khắc phục những thiếu sót này. - Mạng NGN là mạng có dung lượng ngày càng tăng, có tính thích ứng cũng ngày càng tăng, có đủ dung lượng để đáp ứng nhu cầu. 1.7. Một số yêu cầu đối với NGN * Yêu cầu hỗ trợ khả năng phát triển hài hòa từ hạ tầng viễn thông hiện nay lên NGN Những khó khăn thách thức mới mà các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý viễn thông hiện nay phải đối mặt đó là nhu cầu và đòi hỏi xây dựng một lớp truyền tải trên mạng kết nối đường trục làm sao cho nó vừa có tính chất mở đồng thời lại hỗ trợ được nhiều dịch vụ khác nhau theo yêu cầu của khách hàng. Cơ sở hạ tầng mới này sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng mạnh mẽ của các dịch vụ IP và sẽ tham gia vào một hành trình chuyển đổi có chủ ý hết sức thận trọng từ các dịch vụ trên cơ sở TDM lên các dịch vụ cơ sở gói. Trên thực tế, các luồng thông tin số liệu đã vượt xa và chiếm ưu thế hơn so với lưu lượng thoại, tuy nhiên hiện nay trong thời kì quá độ, doanh thu chủ yếu của ngành viễn thông vẫn nằm ở khu vực kinh doanh thoại. Điều này buộc chúng ta phải nghiên cứu cấu trúc NGN đáp ứng kết hợp hài hòa giữa lưu lượng thoại và lưu lượng số liệu. Dựa vào cấu trúc phân lớp của mạng NGN, các nhà hoạch định chiến lược viễn thông cáo cấp có thể hoạch định một chiến lược chuyển đổi hợp lý vì mục tiêu: + Giữ được hệ thống các khách hàng truyền thống, giám sát sự phát triển và biến động của nhu cầu thị trường, đối đầu với các đối thủ cạnh tranh. + Thâm nhập thị trường mới bằng hệ thống dịch vụ phong phú với vốn đầu tư, chi phí vận hành tối thiểu. + Hỗ trợ quá trình chuyển đổi nhanh gọn từ mạng chuyển mạch kênh lên mạng đa dịch vụ mà vẫn đảm bảo những thiết bị hiện có tiếp tục được khai thác vận hành theo năng lực đã được thiết kế. Để thực hiện được sự chuyển đổi một cách hài hòa từ mạng hiện tại thành NGN yêu cầu : - Xây dựng một mạng tích hợp để truyền dẫn các dịch vụ số liệu. Các dịch vụ số liệu hiện nay chủ yếu truyền dẫn trên các phương tiện như IP, ATM,…. Để có thể truyền các dịch vụ số liệu trên các công nghệ khác nhau trên một cơ sở hạ tầng mạng duy nhất cần các giải pháp công nghệ mạng tích hợp các dịch vụ. - Hợp nhất và liên kết tất cả các mạng hiện có. Chiến lược chuyển đổi mạng cần phải đáp ứng tiến trình hợp nhất các mạng khác nhau thành một mạng duy nhất đó là mạng gói

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung.doc
  • docKẾT LUẬN.doc
  • docloi mo dau.doc
  • doctrang bia.doc
  • pptTrinh bay.ppt
  • docTRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠNCỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.doc
Tài liệu liên quan