Đồ án Phân tích tình hình tài chính và một số định hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất cung ứng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ trên thị trường với mục đích đem lại lợi nhuận. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và các vốn chuyên dùng khác. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải tổ chức huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính, tín dụng và chấp hành luật pháp. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tài chính sẽ giúp các nhà doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ đúng đắn nguyên nhân mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính. Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính. Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, bởi vậy nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau.

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích tình hình tài chính và một số định hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất cung ứng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ trên thị trường với mục đích đem lại lợi nhuận. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và các vốn chuyên dùng khác. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải tổ chức huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính, tín dụng và chấp hành luật pháp. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tài chính sẽ giúp các nhà doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ đúng đắn nguyên nhân mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính. Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính. Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, bởi vậy nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần chủ động về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng. Điều này đã đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và đòi hỏi đáp ứng kịp thời với những thay đổi tồn tại và tiếp tục phát triển. Bởi vậy chủ doanh nghiệp phải có những đối sách thích hợp, nhằm tạo ra nguồn tài chính đáp ứng cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả. Nếu như vậy việc cung ứng sản xuất và tiêu thụ được tiến hành bình thường, đúng tiến độ sẽ là tiền đề đảm bảo cho hoạt động tài chính có hiệu quả và ngược lại việc tổ chức huy động nguồn vốn kịp thời, việc quản lý phân phối và sử dụng các nguồn vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện tối đa cho hoạt động SXKD được tiến hành liên tục và có lợi nhuận cao. Do đó để đáp ứng một phần yêu cầu mang tính chiến lược của mình các doanh nghiệp cần tiến hành định kỳ phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính để từ đó phát triển mặt tích cực, mặt hạn chế của hoạt động tài chính, tìm ra những nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng đến các mặt này, từ đó đề xuất được các biện pháp cần thiết để cải tiến hoạt động tài chính tạo tiền đề để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy phân tích tình hình tài chính không những cung cấp thông tin quan trọng nhất cho chủ doanh nghiệp trong việc đánh giá những tiềm lực vốn có của doanh nghiệp, xem xét khả năng và thế mạnh trong sản xuất kinh doanh mà còn thông qua đó xác định được xu hướng phát triển của doanh nghiệp, tìm ra những bước đi vững chắc, hiệu quả trong một tương lai gần. Việc phân tích tài chính là một công cụ quan trọng cho công tác quản lý của chủ doanh nghiệp nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Không nằm ngoài những đối tượng xem xét kể trên Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng là một doanh nghiệp kinh tế độc lập, có tình hình tài chính rất đáng được quan tâm như nguồn vốn chủ ở hữu thấp, các khoản phải trả cao, chi phí lãi vay cao, khả năng thanh toán nhanh kém. Sau một thời gian đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty cần phải được nâng cao đặc biệt là nguồn vốn chủ sở hữu . Do đó phân tích tình hình tài chính có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng qua đó có thể tìm ra những phương hướng mang tính đề xuất và những biện pháp khả thi nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng đồng vốn của xí nghiệp góp phần làm cho xí nghiệp đứng vững phát triển trong cơ chế thị trường. Xuất phát từ ý nghĩa cơ bản về lý luận và thực tiễn của việc phân tích tài chính với mong muốn được kết hợp giữa kiến thức quý báu thu được từ học tập, những kinh nghiệm bổ ích được tiếp thu qua đợt thực tập tốt nghiệp tại Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng, cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thị Ngọc Lan em đã lựa chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính và một số định hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng” làm đồ án tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận đồ án tốt nghiệp được chia làm 4 chương Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ XÂY DỰNG HẢI PHÒNG Chương 3: PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ XÂY DỰNG HẢI PHÒNG Chương 4: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ XÂY DỰNG HẢI PHÒNG. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP I.1- TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI: 1.1. Khái niệm và bản chất của tài chính doanh nghiệp thương mại: Tình hình tài chính của doanh nghiệp không chỉ là mối quan tâm của các doanh nghiệp thương mại sau mỗi quá trình kinh doanh mà còn là điểm chú ý nhất của các đối tượng khác trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ tài chính không chỉ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn cho thấy được quy mô, cách thức kinh doanh, kết quả kinh doanh cũng như khả năng phát triển hay suy thoái của mỗi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp chính là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, nó là một khâu trong hệ thống tài chính, là cái gốc của nền tài chính Quốc gia, Chính tại doanh nghiệp - cá thể của nền kinh tế - các quá trình tạo lập và chu chuyển vốn diễn ra đồng thời với nó là quá trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các quá trình, hoạt động này được tạo lập và được phản ánh trên cơ sở các mối quan hệ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp. Vậy tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong phân phối các nguồn lực tài chính Quốc gia nhằm hình thành và sử dụng những quỹ tiền tệ của doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh và các yêu cầu khác của xã hội. Nếu chỉ xét trong phạm vi một doanh nghiệp thì tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, nó còn có mối liên hệ hữu cơ và quan hệ qua lại với các mặt hoạt động kinh tế khác. Mối liên hệ này phản ánh sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối với sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện để sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Như vậy, tài chính doanh nghiệp qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ sẽ tạo ra những điều kiện đảm bảo cho doanh nghiệp đầy đủ tư liệu sản xuất, sức lao động để doanh nghiệp không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Và ngược lại kết quả sản xuất kinh doanh cũng tác động trở lại tìnhhình tài chính doanh nghiệp bởi để có được nguồn vốn thường xuyên nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp thì công việc sản xuất kinh doanh phải được tiến hành ổn định và liên tục. Điều này thể hiện rất rõ ràng khi giá thành và chi phí lưu thông giảm do tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư và chi phí khác sẽ tạo khả năng tích luỹ và giảm bớt nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên ta cũng cần phải phân biệt tài chính doanh nghiệp với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp chính là tiền và các quỹ tiền tệ và các quỹ tiền tệ mà doanh nghiệp hiện có và có khả năng huy động được để đáp ứng cho các nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói một cách khác đó chính là mục tiêu trước mắt, mục tiêu trực tiếp của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp không phải là tiền hoặc là các quỹ tiền tệ nói chung mà chính tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và cho hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Nhờ có nó mà các doanh nghiệp thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh, trao đổi, tính toán và so sánh trên cơ sở thước đo là đồng tiền. Mặt khác tài chính doanh nghiệp phải được vận dụng một cách năng động và đo lường hiệu quả toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp một cách chính xác và trung thực, đáp ứng lại sự quan tâm của các đối tượng của doanh nghiệp trong nền kinh tế. 1.2.Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp: Tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ nắm vững tình hình kiểm soát vốn SXKD hiện có về mặt hiện vật và giá trị, nắm vững sự biến động vốn nhu cầu vốn trong từng khâu, từng thời gian của quá trình sản xuất để có biện pháp quản lý và thực hiện có hiệu quả. Tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức khai thác và động viên kịp thời các nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho quá trình SXKD, không để cho vốn bị ứ đọng và sử dụng kém hiệu quả. Để làm điều kiện này tài chính doanh nghiệp phải thường xuyên giám sát và tổ chức sử dụng các nguồn vốn vay và tự có của doanh nghiệp, làm sao với lưng vốn nhất định phải tạo ra một lượng lợi nhuận lớn trên cơ sở sử dụng tối đa các nguồn lực hiện có. 1.3. Chức năng của tài chính doanh nghiệp: Mỗi một thành viên, một đơn vị trong nền kinh tế đều mang một hoặc một số chức năng nhất định. Xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế hay của đơn vị đó, khi muốn hoạt động có hiệu quả thì phải thực hiện tốt, đầy đủ và thực hiện một cách sáng tạo những chức năng, nhiệm vụ của mình. Một là đối với doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế, được tổ chức một cách chặt chẽ, khoa học thì việc thực hiện chức năng, chủ yếu là chức năng tài chính, là một yêu cầu, một đòi hỏi bắt buộc không chỉ từ bên ngoài mà còn cả trong nội bộ của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp mang hai chức năng trọng yếu, chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy là hai chức năng riêng biệt nhưng chúng luôn luôn có mối liên hệ biện chứng, chúng tác động lẫn nhau trong một phạm vi nào đó, giúp đỡ cho nhau. Qua tìm hiểu hai chức năng này ta càng có thể thấy rõ điều đó hơn. 1.3.1. Chức năng phân phối: Phân phối là một thuộc tính phản ánh bản chất của tài chính doanh nghiệp, nó vốn có trong phạm trù tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên khi nói đến chức năng ta càng cần phân biệt việc thực hiện chức năng đó trong công việc tài chính doanh nghiệp. Nói đến chức năng phân phối là nói đến biểu hiện khả năng khách quan của doanh nghiệp, nói đến chủ đề phân phối các nguồn tài chính, đến đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp, đến kết quả của quá trình phân phối đó. Còn khi đề cập tới việc thực hiện chức năng thì phải nói đến con người vận dụng chức năng đó trong thực tiễn như thế nào. Trong phạm vi chức năng phân phối, hoạt động của tài chính bao gồm 3 nhóm lớn: - Phân phối các nguồn tài chính để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của chức năng phân phối bởi nó quyết định đến kết quả, tiến trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do một doanh nghiệp muốn hoạt động được cần phải có vốn. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, ngoài nguồn tài chính được ngân sách cấp khi thành lập hoặc cấp bổ sung hàng năm thì doanh nghiệp còn có một nguồn tài chính khác. Đó là nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp sau một quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hoặc do nhận đóng góp tham gia liên doanh của các đơn vị khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Đối với các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư nhân thì ngoài nguồn vốn tự đóng góp và vốn tự bổ sung ra thì Công ty đó không có nguồn vốn nào khác nữa. Muốn tăng thêm vốn thì các Công ty này chỉ còn cách kêu gọi các cổ đông đóng góp thêm hoặc đi vay của Ngân hàng... - Hoạt động phân phối hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đã huy động được để hình thành các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, các tài chính của doanh nghiệp như tài sản cố định, tài sản lưu động ..., hoặc để đầu tư ... ở khâu này yếu tố hiệu quả sử dụng vốn được đặt lên hàng đầu. Việc bố trí tỷ trọng hợp lý giữa tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp phải tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, việc bổ sung vào các quỹ tiền tệ còn phải tuỳ thuộc vào nhu cầu và tình hình tổ chức của doanh nghiệp thời gian tới ... Do vậy với chức năng phân phối nguồn vốn của mình, tài chính doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu vốn hợp lý. Tuy nhiên có được một cơ cấu vốn hợp lý không phải đơn giản, một phần là do lượng vốn của doanh nghiệp biến động thường xuyên được bổ sung thêm do làm ăn có lãi hoặc bị giảm bớt neéu làm ăn thua lỗ, một phần khác là do hoàn cảnh và điều kiện kinh doanh cũng thường xuyên biến đối. Mặc dù vậy mỗi ngành kinh doanh cũng đều đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất. Đối với ngành kinh doanh thương mại thì do đặc điểm riêng có của hoạt động kinh doanh, cơ cấu vốn hợp ký là tỷ trọng vốn lưu động phải lớn hơn vốn cố định. Tỷ trọng này lớn hơn bao nhiêu thì còn phải tuỳ thuộc vào tình hình đặc điểm nghiệp vụ kinh doanh và điêù kiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Hoạt động phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều thực hiện công việc phân phối hoặc phân phối lại kết quả hoạt động kinh doanh (nếu doanh nghiệp đã tiến hành phân phối trước theo kết quả dự tính). Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện thông qua doanh nghiệp, qua lợi nhuận sau khi trừ chi phí và được phân bổ theo quy định của Nhà nước. Đầu tiên là các khoản nộp cho ngân sách Nhà nước, các khoản góp vào quỹ, lãi chia cho cổ đông (nếu là Công ty cổ phần). Tóm lại, chức năng phân phối là chức năng chủ yếu của tài chính doanh nghiệp, nó xoay quanh nhiệm vụ cơ bản là làm cơ sở cho công tác và tổ chức hoạch định tài chính của nhà quản trị tài chính của Công ty đó. 1.3.2. Chức năng giám đốc: Nếu chức năng phân phối đưa ra biện pháp để tổ chức hoạch định tài chính thì chức năng giám đốc lại chính là biện pháp để kiểm tra giám sát tính mục đích, tính hiệu quả của chức năng phân phối. Nó được định nghĩa như là một khả năng khách quan sử dụng tài chính doanh nghiệp như một công cụ kiểm tra, giám đốc hiệu quả quá trình phân phối các nguồn tài chính để hình thành và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy theo định nghĩa trên thì chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp là một chức năng khách quan mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập thành các quỹ tiền tệ và sử dụng chúng theo mục đích đã định. Hàng ngày hoặc hàng kỳ quyết toán, doanh nghiệp luôn phải theo dõi sát sao hệ thống tiền tệ của mình, hay nói cách khác công cụ của chức năng giám đốc là tiền tệ. Nhà tài chính doanh nghiệp sử dụng công cụ đó để thực hiện chức năng giám đốc thông qua các chỉ tiêu kinh tế tài chính của mọi hoạt động của doanh nghiệp mình. Qua việc kiểm tra giám đốc đó thì phải tìm ra các ưu nhược điểm của quá trình phân phối và sử dụng vốn của doanh nghiệp để nghiên cứu đưa ra biện pháp tốt nhất thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Một điểm cuối đáng ghi nhận trong nội dung chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp bởi vì đây chính là công việc giám đốc thông qua các chỉ tiêu giá trị. Tài chính là một phạm trù giá trị sử dụng đồng tiền làm thước đo nên muốn giám đốc được bằng đồng tiền thì phải thực hiện được quy luật giá trị và các nội dung của giám đốc tài chính như: giám đốc nguồn vốn, quá trình chu chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng tiền tệ, quá trình thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước về kinh tế tiền tệ ... Vậy, qua tìm hiểu về hai chức năng phân phối và giám đốc của tài chính doanh nghiệp ta càng thấy rõ mối liên quan mật thiết giữa chúng, thấy được sự nâng đỡ, phụ thuộc lẫn nhau giữa giám đốc và phân phối. Để thực hiện tốt chức năng phân phối thì chức năng giám đốc cũng phải được chú ý, đề cao và ngược lại. Phân phối chỉ hợp lý nếu giám đốc có hiệu quả và giám đốc chỉ được nâng cao nếu phân phối luôn được thực hiện tốt. 1.4. Vai trò của tài chính doanh nghiệp: Các chức năng của tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong thực tế qua các hoạt động của con người. Do vậy việc thực hiện nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà trước hết là cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tiếp theo đó là chế độ hạch toán kế toán và quản lý tài chính của Nhà nước, yếu tố thị trường tài chính và trình độ quản lý tài chính của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp giữ nhiệm vụ trọng yếu. Tuy nhiên ta có thể thấy tài chính doanh nghiệp có 4 vai trò lớn: + Đảm bảo vốn và nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp qua việc thực hiện hai chức năng nêu trên. Nó là điều kiện để cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thuận lợi theo mục đích đã định hoặc thông qua tổ chức khai thác nguồn vốn và sử dụng vốn. + Vai trò là đòn bẩy kinh tế: nhờ có các công cụ tài chính như đầu tư, lãi suất, cổ tức, lãi tức, giá bán, tiền lương, tiền thưởng mà tài chính doanh nghiệp trở thành biện pháp kích thích đầu tư, nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng, kích thích quá trình sản xuất kinh doanh và điều tiết sản xuất kinh doanh. + Vai trò kích thích tiết kiệm và kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Nhờ có tài chính tiền tệ hoá tất cả các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu bằng tiền trên các sổ sách kế toán mà ta có thể phân tích, giám sát kiểm tra được quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện được chế độ tiết kiệm, giảm chi phí, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Vai trò cuối cùng: tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra và giám sát mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. 1.5 Vốn và cấu thành vốn của doanh nghiệp: Ta có thể thấy các vấn đề của tài chính doanh nghiệp đều xoay quanh vấn đề là vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Vậy trước khi đi sâu tìm hiểu về quản trị tài chính ta cũng phải biết rõ về vốn, các loại vốn của doanh nghiệp. Vốn chính là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản của doanh nghiệp, gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Các tài sản này được biểu hiện dưới hai hình thái: vật chất và giá trị. Dưới hình thái vật chất, các tài sản của doanh nghiệp bao gồm: những công cụ, dụng cụ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, hàng hoá ... Còn dưới hình thái giá trị, hay nói rõ hơn là dưới thước đo tiền tệ thì giá trị tài sản của doanh nghiệp sẽ được đánh giá và mang một lượng giá trị nào đó. Tài sản của doanh nghiệp được chia làm hai phần. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản lưu động của doanh nghiệp, còn vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản cố định. Tài sản lưu động là những tài sản có tốc độ và thời gian chu chuyển dưới một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Do đó các loại vốn cũng mang đặc điểm của những tài sản mà nó biểu hiện. Vì chu chuyển nhanh nên vốn lưu động được bù đắp một cách nhanh chóng còn vốn cố định luôn phải được phân bổ khấu hao làm nhiều lần trong nhiều kỳ kinh doanh. Dựa trên đặc điểm các loại vốn của doanh nghiệp ta có thể thấy được rằng tính chất và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sẽ quyết định cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Thật vậy, trong một doanh nghiệp sản xuất thì khối lượng tài sản cố định như máy móc, thiết bị ... nhiều nên tỷ trọng vốn cố định rất lớn. Doanh nghiệp thương mại thì lại khác, do đặc điểm kinh doanh là mua để chuyển bán, số lượng là tài sản lưu động đầu tư cho mua hàng hoá là rất nhiều và chiếm tỷ trọng rất lớn, nhiều khi tới 70-80% tổng tài sản của doanh nghiệp. Do đó sẽ không có một chuẩn mực nào cho cơ cấu vốn trong doanh nghiệp mà vẫn đề chính ta cần xem xét ở đây là sự tài trợ cho các nguồn vốn của doanh nghiệp có được vững vàng không, lấy từ nguồn nào sự phân bổ loại vốn đã phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa ... Một trong những nguyên tắc cơ bản của tài trợ vốn đó là doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định và nguồn vốn ngắn hạn để hình thành tài sản lưu động. Cách tài trợ này mang lại cho doanh nghiệp sự ổn định và an toàn về mặt tài chính. Do vậy phải hết sức tránh điều này. Trong doanh nghiệp thương mại, ta đã biết rằng tỷ trọng vốn lưu động luôn chiếm đa số trong tổng
Tài liệu liên quan